tháng 8 2013 ~ Cội nguồn họ Phạm

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

THƯỢNG THƯ PHẠM ĐÌNH TRỌNG ANH HÙNG THỜI LOẠN VÀ BI KỊCH CUỘC ĐỜI

Danh nhân lịch sử Phạm Đình Trọng, một nhà khoa bảng có nhiều đóng góp với triều đình Lê - Trịnh, qua nhiều thế kỷ được nhân dân tôn thờ, nhưng một thời gian dài tên tuổi bị lu mờ, các nơi thờ tự bị xâm hại, lãng quên...Mới đây, được sự giúp đỡ của giới lịch sử học, các nhà bảo tồn bảo tàng, hậu duệ đời thứ 17-18 của cụ Thượng Phạm đã mở hành trình tìm về quá khứ, phát hiện được nhiều chứng cứ để "minh oan" cho Phạm Đình Trọng. Và lịch sử đã công bằng trả lại vị trí cho ông: hội thảo khoa học về thân thế sự nghiệp Tiến sĩ - Thượng thư Phạm Đình Trọng do giới sử học Việt Nam tổ chức; đình Khinh Dao, nơi thờ Phạm Đình Trọng làm thành hoàng được xếp hàng cấp quốc gia, Nhà nước đầu tư gần 20 tỷ đồng để tu bổ, tôn tạo; đền miếu thờ Quan Thượng quận ở Khinh Dao được xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố...
   Phạm Đình Trọng xuất thân và nhập thế ở xã hội Đại Việt vào giữa thế kỷ 18, khi mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến phát triển lên một đỉnh cao, biểu hiện thành cao trào nông dân khởi nghĩa mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Chính lúc này sự tồn vong của triều đình Lê - Trịnh trước cao trào khởi nghĩa nông dân lại được đảm bảo bằng tài năng của danh tướng Phạm Đình Trọng. Giáo sư sử học Văn Tạo cho rằng: Để đánh giá đúng sự thật về Phạm Đình Trọng cần hiểu biết sâu về đối thủ không đội trời chung của ông là Nguyễn Hữu Cầu - người đánh thắng nhiều tướng tài của Lê - Trịnh mà chỉ có thua Phạm Đình Trọng. Nguyễn Hữu Cầu, người làng Lôi Động, huyện Thanh Hà, tỉnh Quảng Ninh. Ông là người mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, chiến đấu hăng, mưu trí, quyền biến trăm đường, nhiều lần bị mấy vòng vây, chỉ một mình một ngựa vượt vây xông ra, rồi một vài hôm lại có quần chúng hàng vạn người. Ông được coi là Hạng Vũ nước Nam, có tài "nhất hô bách ứng".
   Trong cuộc chiến kéo dài giữa Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu đều trổ hết tài năng. Nhưng phần thắng cuối cùng đã thuộc về triều đình Lê - Trịnh mà công lao xuất sắc nhất đã được ghi về Phạm Đình Trọng: năm Tân Mùi (1751), tháng giêng, mùa xuân, Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Hữu Cầu ở Nghệ An. Thế rồi bi kịch cũng đã xảy ra với Phạm Đình Trọng. Sau khi diệt Nguyễn Hữu Cầu, Phạm Đình Trọng phụng mệnh đi trấn thủ Nghệ An kiêm đốc binh châu Bố Chính. Thấy nhân dân một số nơi thiếu đói, ông xin cho xá thuế, thi hành đức trị nên đất Nghệ An, Bố Chính dân được an cư lạc nghiệp. Ông còn cho lập các đội hương binh ở Nghệ An, lại đặt các đồn binh liên hoàn ở những nơi xung yếu, cùng hương binh canh phòng tuần tiễu giữ gìn an ninh trật tự. Một số quan đại thần, tướng lĩnh cao cấp của triều đình Lê - Trịnh hẹp dạ, vốn ghen tài thấy thế lại gièm pha với chúa Trịnh rằng ông mưu phản. Chúa Trịnh Doanh tin lời xiểm nịnh, muốn chặt vây cánh của vua Lê đã ép Phạm Đình Trọng uống thuốc độc chết vào đêm 30 Tết năm Giáp Tuất (1754). Khi sứ giả của Phủ Chúa đem rượu độc vào ban cho ông được chết toàn thây. Một bộ tướng cầu xin ông vào Nam theo Chúa Nguyễn, nhưng ông không nghe lời, cho mời Đốc đồng Nguyễn Danh Lâm căn dặn mọi việc để giữ yên xứ Nghệ, rồi lặng lẽ mặc triều phục hướng về Bắc vái vọng vua Lê, đoạn uống cạn chén rượu độc Chúa ban. Năm ấy, Phạm Đình Trọng mới 41 tuổi, tài năng đang ở độ chín. Trong Văn tế ông, Tiến sĩ Nguyễn Danh Lâm thảng thốt khóc than: "Tướng công hà cớ gì mà phải chết!? - Ngài là bậc quốc gia dựa cậy. Như cột trụ, như đá tảng giữa dòng nước xiết, triều đình tưởng trông. Ngài là một văn chương đạo đức, được dân chúng thực sự ngưỡng vọng. Ngài như cam lồ, mưa lành, phương trấn thảy đều chờ mong..." và đánh giá: "Chưa bốn mươi, chức Thượng thư, với người là sớm, với Ngài là còn chậm! Đội mũ nhà nho làm Tướng, với người thì lạ, với Ngài đúng sở trường..."
   Có thể nói, sự kết thúc cuộc đời bi thảm của cả hai nhân vật Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu là sự kiện tiêu cực điển hình của xã hội Đại Việt giữa thế kỷ 18, khi chế độ phong kiến đi xuống.
    Phạm Đình Trọng, người làng Khinh Giao, huyện Giáp Sơn, trấn Hải Dương, nay là thôn Khinh Dao, xã An Hưng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi (1739), niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 đời vua Lê Ý Tông. Ông từng giữ chức Phó đô ngự sử, vào phủ Chúa Trịnh (Phủ Liêu) làm Bồi Tụng, tước Dao linh hầu. Sau đó, được bổ giữ chức Hiệp trấn 3 đạo Đông, Nam, Bắc. Năm 1750, vì có công dẹp cuộc nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu (Quận He), Phạm Đình Trọng khi ấy mới 36 tuổi được thăng chức Thượng thư bộ Binh, hàm Thái tử Thiếu bảo, tước Hải Quận công. Trong lời Chế phong, vua Lê Hiển Tông đã tán dương tài năng, đức độ của ông như sau: "Xét Phạm Đình Trọng: Tài năng dùng làm cột trụ, làm đá tảng cho Nhà nước, khí độ cao như núi cao. Trời phú cho văn chương, tuổi trẻ nổi tiếng khoa giáp. Tỏ khí nghiệp từ lúc làm quan nhỏ, sắn có ước mong công hầu...".
     Phạm Đình Trọng là một con người tài cao, chí lớn, được đương thời và hậu thế hết sức nể trọng. Sử gia Phan Huy Chú đã ghi tên Phạm Đình Trọng tề danh với các bậc tài năng kiệt xuất như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Duy Thì, Đặng Đình Tướng, Nguyễn Nghiễm...Phan Huy Chú bình phẩm về con người ông bằng những lời khen ngợi: "Ông sinh ra đã có vẻ khôi ngôi. Năm lên 8 tuổi học vỡ lòng, đã hiểu được luật thơ. Khi lớn, văn chương hùng hồn...Ông tài kiêm văn võ, làm bậc nguyên thần của nước, là danh tướng làng nho, công lao sự nghiệp kỳ vĩ, gần đây chưa thấy có".
   Phạm Đình Trọng sinh ra trong một gia tộc nối đời nho học, thế phiệt trâm anh nên đã kế thừa, phát huy truyền thống gia đình. Ông vốn dòng dõi danh sĩ Phạm Sư Mạnh đời Trần, Phạm Gia Mô đời Hậu Lê, cao tổ là Phạm Chất Lượng làm đến chức Tả thị lang bộ Hộ, tước Hồng Nguyên hầu, tằng tổ là Phạm Huy Ánh làm đến chức Đô ngự sử hàm Thái tử Thiếu bảo, tước Yến Dực hầu; cha là Phạm Doãn Địch, Giám sinh Quốc tử giám làm đến chức Tri phủ phủ Thiệu Phong.
   Năm 1912, khi soạn bộ "Nam Hải dị nhân liệt truyện" (Truyện những người kỳ lạ ở đất Nam Hải), Phan Kế Bính lựa chọn tất cả 50 nhân vật, sắp xếp theo trật tự 8 bậc. Phạm Đình Trọng được Phan Kế Bính xếp vào hàng "Các bậc danh thần", tức bậc thứ 2, chỉ sau "Các bậc đại anh kiệt" (Trong số "Các bậc danh thần" có Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Trịnh Kiểm, Lương Hữu Khánh, Phạm Đình Trọng). Hiện nay, chúng ta có thể không hoàn toàn tán đồng với các sắp xếp, đánh giá của họ Phan về nhân vật hay một số nhân vật khác trong bảng giá trị các danh nhân lịch sử phong kiến nước ta, nhưng dù sao chăng nữa cũng phải thừa nhận nhân vật Phạm Đình Trọng thuộc loại tài năng kiệt xuất hiếm có vào nửa đầu thế kỷ 18. Chẳng thế mà vào năm Giáp Tuất (1754), khi nghe tin Phạm Đình Trọng chết ở doanh trấn Nghệ An, vua Lê Hiển Tông vô cùng thương xót, sai quân thuỷ bộ hộ tống linh cữu về làng Khinh Dao an táng; đồng thời sai quan Thượng thư là Trần Cảnh đến tận nơi dự tế. Chúa Trịnh Doanh cũng sai Thượng thư Bộ Lễ Nguyễn Công Thái đến tế và tặng 16 chữ: "Phủ dân, Tiễu khấu, Cố bản, An biên, Ái quốc, Trung quân, Hoàn danh, Cao tiết" (có nghĩa là: Yên dân, Diệt giặc, Vững gốc, An biên, Yêu nước, Trung quân, Danh thơm, Cao tiết).
   Theo ông Ngô Đăng Lợi, Chủ tịch Hội KHLS Hải Phòng, Phạm Đình Trọng có để lại một tập thơ chữ Hán chép tay; khoảng những năm 1966-1967, đã thông báo in xong bản dịch tập thơ trên báo Nhân Dân, không rõ sao không thấy phát hành. Di sản văn chương của ông hiện chỉ còn bài phú "Bắc môn toả thược" (Then khoá cửa Bắc) làm khi còn đi học; bài "Tượng đầu đoán tụng" làm khi trị nhậm ở châu Bố Chính và một bài thơ "Tiễn Nhập thị Tham tụng Kiều Quận công Nguyễn Công Thái trí sĩ" và một vài câu đối đáp với Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Gia phả cho biết, Phạm Đình Trọng có 4 phu nhân: Chính thất họ Lưu hiệu là Trinh Tĩnh; thứ thất họ Đặng hiệu là Từ Dũ; thứ thất họ Lưu, hiệu là Từ Hoa; thứ thất họ Nguyễn, hiệu là Diệu Tín. Không rõ theo nguồn tài liệu nào, Từ điển nhân vật Việt Nam (tái bản lần thứ 4 - NXB Văn học HN- 1997) cho biết vợ ông là nữ sĩ Mai Lâm Tuyết, con gái Thượng thư Mai Thế Kiệt và em gái An Đông hầu Mai Khôi, người luôn sát cánh với Phạm Đình Trọng trong các cuộc chính phạt.
Trần Phương
Nguồn http://haiphonghoc.vnweblogs.com
Đình Khinh Giao (ảnh Dương Tuấn Tú)

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Tây từ làng Đồng Di, một di tích cổ quý hiếm

Tây từ làng Đồng Di, thờ ngài Đệ nhất khai canh, Triệu cơ Tây thổ của làng là Nội Tán Vân Hiên Hầu Phạm Quang Hựu. Nhân vật lịch sử này có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn Phúc Lan mở mang bờ cõi.
Hương phổ Đồng Di chép rằng, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Phạm Quang Hựu cùng với người em trai theo cha là ngài ký lục Phạm Quang Đồng, theo chủ trương của nhà chúa, về vùng phía đông của làng Dã Lê để khai hoang lập ấp. Lúc bấy giờ có vị tú tài triều Lê là Lê Quang Ngạnh, ngài Đinh Như Khoan (húy Dư), ngài họ Dương (muội húy)… theo phò chúa Nguyễn Hoàng, đã hưởng ứng chủ trương di dân, khai hoang lập ấp và các vị ấy đã khai canh Đồng Di Tây. Vùng trũng đang bồi tạo của Đầm Sam dần dần được đắp đập be bờ, đào hói để dẫn nước ngọt vào rửa mặn, trị phèn,… Về sau, thân phụ Phạm Quang Đồng để lại hai anh em ở Đồng Di, sang sống ở làng Mậu Tài và biệt tăm. Hai anh em họ Phạm tiếp tục sống ở Đồng Di, rồi đỗ đạt, riêng Phạm Quang Hựu là bạn đồng học của thế tử Nguyễn Phúc Lan, sớm thành đạt và giữ chức Nội Tán khi Nguyễn Phúc Lan kế thống. Chính Phạm Quang Hựu đã ra sức mở mang làng Đồng Di Tây, còn người em là Chiêu Đức bá Phạm Quang (muội húy) lại khai canh Đồng Di Đông…
Tây từ làng Đồng Di, một di tích cổ quý hiếm
Bàn thờ bên tả với đồ tự khí đơn sơ
Ngài Vân Hiên hầu Phạm Quang Hựu thời trẻ sống ở Đồng Di, trưởng thành làm quan Nội tán trong cung phủ Công Thượng vương Nguyễn Phúc Lan nhưng khi mất, con cháu lại táng ngài ở một địa cát thuộc phường Trung An, tổng Diêm Trường, trên một khoảnh đất đúng một mẫu. Địa bạ phủ Thừa Thiên chép: “TRUNG AN khách hộ phường. Đông giáp xã Cao Đôi (tổng Dã Lê), thôn Đông Kiều, có cột đá làm giới. Nam giáp phường Phụ Ổ Tiên Nộn (tổng Dã Lê), có cột đá làm giới. Bắc giáp phường Cao Đôi và sông.” (sđ d, tr. 225). Về sau, con cháu lại cải táng về địa cát ở phường Thủy Cam, tổng Diêm Trường. Thời Thiệu Trị, làng Đồng Di từng huy động 50 người, tay có giáo mác, cuốc, xuổng để vào rừng chạp mộ ngài. Về sau, con cháu xiêu dạt do các cuộc chiến tranh, hầu như mộ ngài đã bị thất lạc.
Tây từ làng Đồng Di, một di tích cổ quý hiếm
Một đoạn văn tế ngài đệ nhất khai canh
Sau khi Vân Hiên hầu qua đời, nhà của ông biến thành từ đường thờ phụng ông, gọi là Tây từ của làng Đồng Di Tây. Vì Vân Hiên hầu là một đại công thần của thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong nên khi ngài qua đời (ngày 14 tháng 10, không rõ năm), chúa Thượng ban một ngai ngự, một cái tán để thiết trị tại nhà thờ của ngài. Đặc biệt ngày huý nhật (13 tháng 10 âm lịch), con cháu làm đơn lên phủ chúa, chúa cấp 300 quan tiền. Cứ mỗi đời chúa về sau thì ngày kỵ lại bớt 50 quan. Tính từ chúa Nguyễn Phúc Lan, đến thời chúa Võ Nguyễn Phúc Chu thì không còn lệ cấp tiền. Do con cháu họ Phạm quá neo đơn, lại nghèo, không còn tiền nhà nước cấp hàng năm, nên không còn khả năng tu sửa Tây từ, công trình này hư hỏng nặng. Làng quyết định kỵ ngài ở đình Đồng Di. Thời Tây Sơn, nhờ quan Hộ quân sứ Đinh Như Đăng xin làng tận suất vi binh để tôn tạo Tây từ đẹp đẽ. Qua thời gian, làng vẫn tiếp tục tu bổ. Tây từ đến nay cũng đã xuống cấp nghiêm trọng, hai chái bị sập, trang trí long phụng bị gãy đỗ, mái ngói dột nát, tường thấm nước làm tăng độ ẩm, đe dọa cấu kiện gỗ bên trong. Do vậy năm nay, làng Đồng Di Tây đang trùng tu lại Tây từ.
Hậu duệ của ngài khai canh hiện ở làng quá ít ỏi, gia phả gốc đã thất lạc. Năm 1982, hai cha con Phạm Quang Chẩn, Phạm Quang Thưởng bằng truyền ức để viết cuốn gia phả được 6 đời, không đầy đủ. Ngay cuốn gia phả năm 1982 cũng bị trôi trong trận lụt năm 1999. May có bà Huỳnh Thị Thương, vợ của Phạm Quang Thưởng tìm được ở ngọn tre… Các án thờ bên trong Tây từ quá sơ sài, án giữa không có bài vị, án tả lại thiết trí 4 bài vị đã bị xóa các dòng chữ Hán, còn án hữu cũng không có bài vị…
Vân Hiền hầu Phạm Quang Hựu là một công thần của triều chúa Nguyễn Đàng Trong. Cuộc Nam tiến mở mang bờ cõi Đàng Trong thành công thì có sự góp phần không nhỏ của ông. Đặc biệt, ông là vị đệ nhất khai canh làng Đồng Di (Tây), một làng có Văn miếu, nơi sĩ tử bốn phương đến học tập rèn luyện, nhiều người đỗ đại khoa như Lê Quang Đại, Lê Cao Kỷ… nên dân gian một thời truyền tụng: “Học Đồng Di thi An Hòa”… Tây từ đang được làng Đồng Di vận động tôn tạo và đã bắt đầu kế hoạch, là việc làm đáng được ủng hộ của con dân làng Đồng Di. Nên chăng, Hội đồng tộc trưởng thỉnh nguyện chính quyền sở tại giúp làm đơn, hồ sơ gửi cơ quan hữu trách sớm công nhận Tây từ và văn miếu Đồng Di là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Theo Báo Thừa Thiên Huế

Họ tộc Phạm Công ở Thạch Hà đón nhận di tích lịch sử văn hóa nhà thờ tự

Tại Quyết định số 360- QĐUB/2013, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã công nhận Di tích  Lịch sử - Văn hóa: Nhà thờ tự và phần mộ Lê triều Phó đô tướng, Thái uý Ninh Quốc công, Dực bảo trung hưng, Đoan túc Tôn thần  Phạm Công.
Đây là niềm tự hào vinh hạnh không chỉ cho dòng tộc họ Phạm Công ở Văn Sơn mà cho cả quê hương, xã tắc của trăm họ, của dân tộc Việt trong cuộc đấu tranh sinh tồn dựng nước và  giữ nước.
Di tích nhà thờ tự cụ Phạm Công Luận nằm sát phía Tây chân núi Mốc từ thành phố Hà Tĩnh đi theo tỉnh lộ 26 đến xã Thạch Khê (8km) rẽ phía Bắc (Trái) theo đường liên xã Khê – Đỉnh gần 3 km đến di tích Lịch sử - Văn Hóa. Nhà thờ tự Thần tổ thuộc xóm Hà Thanh , thôn Văn sơn, xã Kiều Mộc, phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh – nay là xóm Ba xã Thạch Đỉnh. Khuôn viên nhà thờ phương vị hướng Tây; kiến trúc hình chữ Nhị ( = ) gồm Bái đường, Thượng điện, Nhà bia, Bàn thờ Thổ địa, Bàn thờ các anh hùng liệt sỹ.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Nhà thờ tự của Thần tổ dòng tộc Phạm Công cụ Phạm Công Luận - Lê triều Phó đô tướng, Thái úy Ninh Quốc công, Dực bảo trung hưng, Đoan túc Tôn thần được con cháu trong họ tộc xây dựng thờ tự Cụ và các bậc tiền bối tiên sinh; trên mảnh đất bạc màu sỏi cát, nơi thờ tự vẫn được con cháu bảo tồn, tu bổ, chăm sóc, dâng hương để cầu yên cho mỗi gia đình, cho dòng họ và cho cả “Quốc thái Dân an”.
Giá trị trường tồn, tôn nghiêm vĩnh hằng là thân thế và sự nghiệp của tiên sinh Phạm Công Luận: Lịch sử nước Đại Việt vừa đánh tan giặc Minh trong một cuôc kháng chiến chống ngoại xâm trường kỳ suốt 22 năm (1406-1428) thì phải chống lại sự xâm lấn bờ cõi phía Nam của giặc Chiêm Thành. Triều đình nhà Lê nhiều lần phát binh,  cất quân đi đánh giặc giữ nước. Cuộc tiến công năm 1446: Thần tổ Phạm Công Luận cùng con rể là Nguyễn Bá,  lãnh đạo đại binh vượt biển  đánh vào kinh thành Chà Bàn,  bắt được chúa Chiêm Thành là ByCai. Chiến thắng lớn không bị hao binh tổn tướng,  nên được Vua Lê phong ban tước hiệu” Lê triều Phó đô tướng Thái úy Ninh Quốc công”. Với chiến công hiển hách đó hai cha con ông đều được triều đình nhà Lê phong sắc.
Con cháu trong dòng tộc, cũng như nhân dân nhiều nơi đã lập đền miếu thờ tự Thần tổ Phạm Công Luận tại đền thờ Lê Khôi,  đền Văn Sơn để ghi nhận,  tôn vinh công đức của Thần tổ đối với quê hương,  đất nước. Đến nay đã hơn 550 năm; với công đức của ngài đã trở thành địa chỉ tâm linh không chỉ cho con cháu trong họ tộc mà  phù hộ độ trì cho muôn dân trăm họ.
Phần mộ của cụ Phạm Công Luận được con cháu trong họ Phạm Công đặt lưng chừng núi Mốc; thuộc xóm Ba – xã Thạch Đỉnh; Phần đầu gối tựa vào núi, hướng mặt phía Đông; phía Bắc có khe nước chảy quanh năm; là nơi phong thủy tâm linh “ Sơn thủy hữu tình”. Khuôn viên lăng mộ có diện tích 257,2m2. Công trình kiến trúc phần mộ hoành tráng, tôn nghiêm. Phần mộ của Thần tổ được con,  cháu trong họ tộc thường xuyên chăm sóc,  gìn giữ; thể hiện sự trân trọng của con cháu đối với bậc Tiền nhân.
Với những giá trị lịch sử văn hóa đã được khẳng định qua bao thế hệ. Chủ tịch UBND tĩnh Hà Tĩnh ra quyết định Công nhận và xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Tỉnh; Đây là một sự kiện có ý nghĩa cao quý, thiêng liêng có tính tâm linh cho dòng họ Phạm Công cũng như bà con trên quê hương xã Thạch Đỉnh – Thạch Hà – Hà Tĩnh.
Phạm Công Hà
Nguồn tin: GTVT

Lễ hội đình Trần Xá

Đình Trần Xá thuộc thôn Trần Xá, xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trần Xá là mảnh đất được hình thành sớm, với truyền thống lịch sử và văn hoá lâu đời. Thời Lý, Trần Xá có tên gọi Trần Xá trang là vùng đất bồi ven sông Thái Bình và sông Kinh thầy Đình Trần Xá thuộc thôn Trần Xá, xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trần Xá là mảnh đất được hình thành sớm, với truyền thống lịch sử và văn hoá lâu đời. Thời Lý, Trần Xá có tên gọi Trần Xá trang là vùng đất bồi ven sông Thái Bình và sông Kinh thầy nên từ rất sớm dân cư đã tụ cư đông đúc lập thành làng mạc với một thiết chế xã hội chặt chẽ. Theo Ngọc phả tại đình Trần Xá cho biết: Đời vua Lý Nhân Tông (niên hiệu Long Phù thứ 3 - 1103), giặc Ai Lao sang xâm chiếm nước ta, nhà vua đích thân dân quân đi đánh giặc. Vua tiến binh đến địa phận trang Trần Xá thi trời đã tối bèn lập đóng quân nghỉ tại đây. Đêm đó vua nằm mơ thấy 3 người mũ áo chỉnh tề, quỳ trước mặt vua tâu rằng: "Chúng thần là ba anh em họ Phạm ở trang này, nay thấy Hoàng đế dẫn quân đi đánh giặc, xin nguyện theo trợ giúp, nhờ hồng phúc của nước nhà nhất định giặc sẽ tan". Nhà vua tỉnh dậy biết thần báo mộng, sáng hôm sau cho mời các bô lão trong làng vào yết kiến. Được các bô lão kể lại đầu đuôi sự tích ba anh em họ Phạm, nhà vua làm lễ tạ rồi xuất quân đi đánh Ai Lao.
Sau khi chiến thắng trở về, vua sai sứ thần phụng sao sắc chỉ phong tặng phúc thần cho ba anh em họ Phạm. Cho phép trang Trần Xá lập miếu phụng thờ.
Thời Trần, tại Trần Xá loan vụng sông ở phía bắc trang (theo Hán tự "loan" có nghĩa là chỗ nước hõm vào), vào năm 1282 vua tôi nhà Trần đã họp hội nghị vương hầu bách quan bàn kế sách đánh giặc Nguyên Mông lần thứ 2. Về sự kiện này sách "Đại Việt sử ký toàn thư" tập II trang 118 xuất bản năm 1998 ghi rõ: "Mùa đông, tháng 10, vua ngự ra Bình Than, đóng ở vũng Trần Xá, họp các vương hầu trăm quan, bàn về kế sách công thủ và chia đi đóng giữ những nơi hiểm yếu". Trần Xá Loan chính là vụng Trần Xá ngày nay, đây là nơi hợp lưu của hai sông Thái Bình và sông Kinh Thầy.
Ngày nay tại đống Khoai Nợ (xưa gọi là gò Khai Quang) thôn Trần Xá còn 2 cây Ruối cổ dân địa phương vẫn gọi là cọc bọc ngựa, tương truyền đây là nơi buộc ngựa của các tướng lĩnh khi xuống thuyền họp hội nghị Trần Xá Loan. Sau hội nghị và trong suốt thời gian của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, Trần Xá trở thành nơi tập kết, đồn trú quân lương của nhà Trần.
Sang thời Hậu Lê (thế kỷ 18), Trần Xá thuộc tổng Cao Đôi, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, do chính sách hà khắc, sự suy yếu của triều đình vua Lê, chúa Trịnh, nhân dân tổng Cao Đôi đứng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Cuộc khởi nghĩa thất bại, cả vùng Trần Xá bị triệt hạ, nhân dân ly tán đi các nơi. Đến đời vua Quang Trung (1788­1792) với chính sách khuyến nông, nhân dân quay về làng cũ sinh sống xây dựng lại làng quê sau một thời gian dân ly tán.
Thời Nguyễn, Trần xá tách thành 2 thôn là Quảng Trạch và Nhân Lý thành lập đơn vị hành chính cấp xã với tên gọi xã Trần Xá, thuộc tổng Cao Đôi, huyện Chi Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Trần Xá chuyển thành một thôn thuộc xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và ổn định cho đến nay.
Đình Trần Xá thờ ba vị thần thời Lý là Phạm Cẩm, Phạm Lang và Phạm Huy và phối thờ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Theo các cụ cao niên địa phương kể lại: Đình Trần Xá được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Vị trí của di tích khi đó nằm trên một gò đất cao giữa làng, cách vị trí đình hiện nay trừng 500m về phía tây. Hiện nay, tại di tích còn giữ được tấm bia thời hậu Lê.
Sang thời Nguyễn, do vị trí chật hẹp; phía sau là ao lớn của làng, phía trước là đất thổ cư của dân nên các kiến trúc thời Lê đã bị phá dỡ và di tích được di chuyển đến vị trí đất chùa của làng như hiện nay. Tại vị trí cũ nhân dân vẫn gọi là đống đình. Vào đầu thế kỷ XX, đình Trần Xá được trùng tu lớn. Công việc do hai giáp của thôn đảm nhiệm, ngôi đình khi đó được kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian đại bái và 2 gian hậu cung bề thế uy nghi. Các cấu kiện của công trình được trạm trổ tinh sảo rồng phượng, hoa lá. Năm 1953, ngôi đình bị thực dân pháp phá huỷ. Sau kháng chiến nhân dân đã dựng tạm 3 gian hậu cung để thờ tự. Năm 1999, nhân dân địa phương đóng góp công đức cùng sự hỗ trợ kinh phí của chính quyền địa phương, đình Trần Xá được trùng tu, tôn tạo lại. Hiện nay đình Trần Xá bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, toà đại bái 5 gian 2 chái và 2 gian hậu cung.
Hàng năm hội đình Trần Xá diễn ra nhiều kỳ đại lễ nhưng quan trọng nhất là hai kỳ lễ: Lễ kỵ nhật: kỷ niệm ngày mất của ba vị thành hoàng làng vào mồng 12 tháng 3 âm lịch và lễ kỷ niệm ngày sinh Phạm Lang, Phạm Cẩm từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 2 âm lịch. Lễ nhật kỵ tổ chức mở cửa đình từ ngày 11 để làm lễ tế, chiều ngày 13 đóng cửa đình, không có các trò chơi dân gian, quy mô lễ hội nhỏ. Lễ kỷ niệm ngày sinh của hai vị thành hoàng Phạm Cẩm và Phạm Lang, được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 2 âm lịch. Hàng năm đến kỳ lễ hội các vị bô lão, kỳ mục, chức dịch trong làng đã họp bàn để chuẩn bị cho công việc này. Việc đầu tiên là bầu ra ban trị sự với 12 thành viên gồm các bô lão, chức dịch và những người có vai vế trong làng và chỉ những người đàn ông mới được tham gia. Ban tổ chức đã bầu ra một người đứng đầu gọi là ông cai đám hay "Ông thượng" có trọng trách toàn quyền quyết đoán, tổ chức các hoạt động trong lễ hội. Sau khi ban tổ chức họp bàn xong, các đầu việc được giao tới các giáp và các thành viên cụ thể. Hai giáp đông và giáp tây phải trực tiếp lo sắm lễ phẩm chuẩn bị cho hội. Trong các công việc trên, việc chuẩn bị lễ phẩm, lễ tế và lễ rước của làng là quan trọng nhất, kế đó là việc tổ chức các trò chơi trong lễ hội...
Theo lệ xưa quy định lễ phẩm dâng tế của làng gồm lễ chay, lễ mặn quy định như sau:
Ngày sinh của hai ông em (lễ hội chính): 13 tháng 2 lễ cúng gồm 3 con lợn một mầu lông, 3 bàn xôi đỏ, 7 quả trứng, muối tinh và các mâm ngũ quả. rước tế xong ca hát 3 ngày.
Ngày sinh của ông anh: 22 tháng 4 lễ cúng như trên
Ngày hoá của ba ông ngày 12 tháng 3 lễ cúng gồm 3 con lợn một mầu lông, 3 bàn xôi đỏ, 7 quả trứng, muối tinh và các mâm ngũ quả...Ngày này quy định cấm ca hát.
Trong lễ hội đình Trần Xá tế lễ và lễ rước là 2 nghi lễ quan trọng nhất năm nào cũng được tổ chức. Lễ rước được tiến hành vào 2 buổi. Lễ rước ngày 12 tháng 2 làng tiến hành rước về tế nhập tịch xin mở hội. Ngày 13 diễn ra lễ rước tứ bàng do bốn làng đồng tổ chức rước giao hiếu.
Lễ rước ngày 12 tháng 2: Đây là lễ rước quan trọng nhất, công việc chuẩn bị cho lễ rước sẽ được tổng duyệt vào buổi trước hôm lễ rước diễn ra. Các chân khiêng long kiệu, long đình, cầm tán tàu cờ quạt, bát bửu đã được cắt cử rõ ràng. Chỉ những nam thanh, nữ tú đồng trinh mới được vào các chân khiêng này. Chiều hôm trước cờ hoa đã được trang hoàng đầy đủ tại đình và dọc theo tuyến rước. Dân làng mang long đình, cờ quạt, bát bửu chiêng, trống đến nhà ông Lý Trưởng rước sắc của các vị thành hoàng ra đình để chuẩn bị cho lễ rước sáng hôm sau. Sáng sớm ngày 12 dân làng đủ các thành phần kéo ra đình dự lễ. Theo quy định, các vị trí đã được phân công sẵn, đúng 6 giờ sáng, lễ rước được cử hành: Rước từ đình ra đống Mả Giao xin phép thần linh rồi rước trả lại đình làm lễ tế nhập tịch xin mở hội. Sở dĩ hành trình lễ rước như vậy vì các vị thành hoàng thờ tại đình đều hoá cùng ngày tại đống Mả Giao là nơi giáp danh giữa khu thượng và khu hạ trang Trần Xá xưa. Lễ rước cổ truyền tại Trần Xá được tổ chức với quy mô lớn. Từ sáng sớm các ngả đường đã chật cứng người, tiếng nhạc, chiêng trống rộn rã. Đi đầu đoàn rước là đội múa lân. Sau đó là tám lá cờ bát quái. Tiếp theo là đôi cờ tuyết mao, năm lá cờ ngũ hành. Kế đến 4 lá cờ tứ linh tương trương cho sự giao kết, hoà hợp giữa âm dương, trời đất, sự kiểm soát tâm linh người đi rước bằng hình ảnh các linh vật long, lân, quy, phượng. Đi sau là ban nhạc lễ gồm trống, chiêng. Tám người trong phường bát âm đi sau trống chiêng chia làm hai hàng điều khiển các nhạc cụ, vừa đi vừa cử những bản nhạc vui như: Kim tiền, Lưu thuỷ... Sau đó là hàng bát bửu do tám cô gái trẻ mặc áo nậu đỏ, quần trắng đầu chít khăn mang. Đứng trước hàng bát bửu là hai biển Tĩnh túc (tức trang nghiêm, kính cẩn) và Hồi tỵ (tức tránh xa đoàn rước). Đi sau bát bửu là hàng chấp kích do tám chàng trai trẻ mặc áo nậu đỏ, quần trắng đầu chít khăn mang. Kế đến là phường đồng văn, sau là long đình. Long đình đặt bát hương và hòm sắc vua ban cho các vị thành hoàng, sắc của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Hai bên long đình có tàn, quạt, lọng, cờ vải che kín rất tôn nghiêm. Sau long đình là đội nghi lễ gồm chấp kích, bát bửu rồi đến long kiệu đều được trang trí vải đỏ lộng lẫy. Hai Long kiệu đặt hương hoa và chiếc mũ quan tượng trương cho thần thánh ngự trị. Sau long kiệu là các bô lão, quan viên, chức dịch và dân bản trong làng và đoàn người tứ xứ với trang phục sặc sỡ. Như vậy lễ rước hội đình Trần Xá là rước sắc và rước thần. Đứng xa trông đoàn rước như một con rồng đang chuyển mình. Đặc sắc nhất phải kể đến tiết mục "Kiệu bay" với lối múa tạt ngang, tạt dọc, thoắt tới thoắt lui, chạy ào ào như bão tố, quay vòng như cơn lốc hết sức thú vị, hết thảy mọi người đứng xem chật lối chật đường cũng phải dạt ra khi kiệu bay tới. Không khí của buổi rước thật nô nức náo nhiệt trong tiếng nhạc, tiếng chiêng trống rộn rã. Ai cũng hả hê vui nhộn. Khi đoàn rước về tới sân đình, đội hình được tập kết trước sân. Dân làng rước lễ và văn chúc vào đình rồi tiến hành tế nhập tịch xin khai mở hội, lễ rước kết thúc.
Lễ rước tứ bàng ngày 13 tháng 2:Trong lễ hội tại Trần Xá thường diễn ra lễ rước tứ bàng (còn gọi là rước giao hiếu). Đây là nghi lễ đặc biệt ít nơi có được. Sở dĩ có tên gọi này là do 4 làng (Trần xá, Quảng Tân, Linh Xá, Đột Lĩnh) của tổng Cao Đôi, huyện Chí Linh xưa liên kết với nhau đồng tổ chức rước giao hiếu. Theo quy ước mỗi năm tổ chức rước một lần luân phiên về các làng vào dịp lễ hội chính. Khi đến phiên của làng nào thì làng đó đứng ra đăng cai tổ chức. Như vậy, cứ 4 năm trong kỳ lễ hội, Trần Xá lại đứng ra đăng cai đại lễ rước tứ bàng của bốn làng. Với tâm thức hướng về cội nguồn, lễ rước tứ bàng của 4 làng của tổng Cao Đôi được tổ chức trên tinh thần cộng đồng với việc ứng xử giao tiếp giữa các làng, ý thức về gìn giữ phát triển các giá trị văn hoá cộng đồng. Vào ngày trọng hội các làng rước Thánh, các vị Thành Hoàng làng lễ tại đình làng mình rồi rước tới đình làng đăng cai lễ hội năm đó. Cách sắp xếp đội hình, vị trí từng làng đã được qui định trước. Khi rước tới đình làng chủ hội các làng tập trung làm lễ tế thành hoàng. Đây là nghi lễ chung của cả tổng. Đôi tế do các làng đồng cử các thành viên tham gia. Chủ tế và đội tế cũng phải được lựa chọn kỹ càng, khắt khe. Văn chúc phải soạn thảo nội dung nêu rõ được năm tháng, địa danh, tên, công đức các vị Thánh, thành hoàng của từng làng và chuyển lời cầu xin tới thánh thần, mong các Ngài ban phúc lành cho dân, cầu cho mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu... tới chiều thì lại rước Thánh làng nào về làng ấy. Theo thường kỳ cứ vào năm Trần Xá đứng ra đang cai thì lễ rước của làng cũng được chuẩn bị chu đáo. Quy trình lễ rước cũng được tiến hành trang nghiêm theo đúng quy định. Lễ rước cũng tiến hành rước từ đình ra đống Mả Giao rồi rước trở lại tập kết với bốn làng trước sân đình cùng làm lễ tế. Lễ rước tứ bàng khác chỉ có long đình và một long kiệu. Long đình đặt bát hương và kiệu bài vị các thành hoàng. Trong tâm thức của người dân thì lễ rước tứ bàng của 4 làng được tổ chức nhằm mục đích để các vị thành hoàng, các thánh của 4 làng được gặp gỡ hàn huyên với nhau. Vì theo truyền thuyết và các Thần phả, Sắc phong còn lại tại các di tích cho biết các vị Thánh, các vị Thành Hoàng của 4 làng đều là những linh thần, những anh hùng dân tộc, có công đánh đuổi giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi nên khi dân làng tổ chức lễ hội cũng là dịp để tưởng nhớ công ơn các vị tiền bối. Đây là hoạt động văn hoá dân gian hết sức độc đáo, nó không chỉ mang tính nghệ thuật cao mà còn thể hiện rõ tinh thần của cộng đồng làng xã.           
Sau lễ rước diễn ra lễ tế. Đây là một nghi lễ rất quan trọng. Đội tế được thành lập gồm từ 15 đến 17 thành viên. Theo lệ xưa, trước kỳ hội diễn ra, đội tế được duyệt lại thành viên, hoặc bổ sung thành viên mới. Đội gồm các chức danh: 1 mạnh bái là ngưưi đứng đầu đội tế, đứng chấp bái mang trọng trách tế thần. 4 bồi tế là những ngưười có phận sự giúp chủ tế trong quá trình hành lễ. 1 đông xướng và 1 tây xưưng đứng đối xứng hai bên hương án, đông xướng đứng bên phải, tây xướng đứng bên trái, chịu trách nhiệm xướng trong khi hành lễ. 2 nội tán đứng hai bên chủ tế, phụ giúp chủ tế khi hành lễ. Các quan viên chấp sự đứng ở hai bên hương án phụ giúp chủ tế như dâng hương, dâng rượu và chuyển chúc, đọc chúc. Trong các chấp sự này được cử ra một người có nhiệm vụ độc chúc, hoá chúc khi tiến hành lễ. Thành viên đội tế đều phải mặc trang phục tế khi bước vào khoá tế. Theo truyền thống, chủ tế mặc áo lương bên trong màu trắng bên ngoài màu tím, đội mũ tím hoặc đen, quần trắng đi hia đen hoặc đỏ. Bồi tế trang phục như chủ tế, các quan viên mặc quần áo tế màu tím hoặc đen. Văn chúc thường do ngưưi giỏi văn chương chữ nghĩa soạn bằng hán tự. Người này phải có chân trong hội tư văn, được dân làng cử để tả văn. Nội dung văn tế thường nêu rõ công trạng và ca ngợi công đức cao dầy của vị Thành Hoàng và chuyển lời cầu xin của làng xã tới các Ngài.
Nội dung tế lễ chia làm bốn phần:
Thứ nhất là lễ nghênh thần, chủ tế phải làm bốn lễ.
Thứ hai là hiến lễ lên thần linh, lễ dâng ban lần, gọi là sơ hiến lễ, á hiến lễ và chung hiến lễ, mỗi lần chủ tế và bồi tế phải quỳ để hiến lễ, mỗi lần phải lễ hai lễ, tổng cộng là 6 lễ.
Sau hiến lễ là đọc chúc văn và lễ tất. Lễ tất chủ tế phải lễ bốn lễ.
Nhìn chung cả ba khoá tế (nhập tịch, chính kỵ, tế tạ) được tiến hành giống nhau chỉ khác về phần chúc văn. Như Văn tế nhập tịch ngày 12 tháng 02, ngoài phần ghi rõ ngày, tháng, năm thì nội dung thường nêu rõ lý do, mục đích xin khai mở hội. Văn tế chính hội, thường nêu rõ công trạng các Ngài, mong ngài ban phát tài lộc tới muôn dân, mong cho sức khoẻ bình an tới muôn họ, cho quốc thái dân an. Văn tế giã đám (tế tạ) thì báo cáo thần linh kỳ lễ hội đã thành công và xin kết thúc hội. Nội dung một khóa tế thực hiện đầy đủ 54 bước xướng với một tuần dâng hương, ba tuần dâng rượu, đọc chúc văn và lễ tất. Trong suốt khóa tế trống nhạc tế được cử hành đều đặn theo từng nhịp xướng. Khóa tế được diễn ra trang nghiêm kính cẩn. Sau khi khoá lễ kết thúc dân làng và khách phập phương vào lễ bái mong cầu các vị thành hoàng ban phát phúc lộc, sức khoẻ. Sau buổi đại tế, người ta coi là thần linh luôn có mặt ở đình. Từ hôm mở hội, các chức sắc và bô lão phải chia nhau túc trực tại đình cho đến khi hết hội.
Ngoài ra vào những năm hạn hán, úng lụt, vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, 9 làng của tổng Cao Đôi tiến hành rước lễ đến đình Trần Xá tập trung làm lễ tế cầu đảo. Khoá tế thường do hương lý tổ chức. Các thành viên của các làng cắt cử các thành viên của mình tham dự. Đây là điều đặc biệt tại Trần Xá. Trong khoá tế văn tế nêu rõ lời cầu xin của muôn dân tới các Ngài cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Một nghi lễ mang tính phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước.
Trong lễ hội ngoài các nghi lễ tâm linh được tổ chức rất trang nghiêm, tôn kính thì hoạt động hội, các trò chơi dân gian cũng được tổ chức. Trong lễ hội một số các trò chơi thường xuyên được tổ chức như: cờ người, đi cầu thùm, tam cúc điếm, chọi gà, đấu vật, bắt vịt...ngoài ra còn tổ chức một số hoạt động văn nghệ như hát trống quân, hát đúm...
Lễ hội truyền thống đình Trần Xá là một lễ hội dân gian khá tiêu biểu trên đất Hải Dương. Đây là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng, có tác dụng gắn bó cộng đồng dân cư với quê hương, đất nước. Không khí lễ hội thật tưng bừng trong lễ rước, thật thiêng liêng khi tế lễ, thật vui tươi khi chơi hội. Lễ hội đình Trần Xá đã mang đầy đủ những giá trị truyền thống văn hoá được thể hiện rõ trong toàn bộ tiến trình của lễ hội. Thông qua các nghi lễ, các trò chơi dân gian nhiều hoạt động thông thường đã được nghệ thuật hoá, nghi thức hóa và mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, đó là tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Nguyễn Văn Cường
Nguồn tin: Di tích Côn Sơn Kiếp Bạc


Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Đình làng Đinh Xuyên

Ở thôn Đinh Xuyên (xã Dư Xá Thượng, Ứng Hòa, Hà Nội), bao thế hệ người làng vẫn truyền tai nhau về hiện tượng “sinh đôi – tử cặp” thường xuyên xảy ra từ nhiều năm nay. Chuyện sinh tử vốn là quy luật tự nhiên, nhưng một số làng vẫn cho rằng liên quan đến thuyết “đồng sinh, đồng tử” của hai vị Thành Hoàng làng.
Đình làng Đinh Xuyên, nơi bắt nguồn nhiều truyền thuyết lạ kỳ
Đình làng Đinh Xuyên, nơi bắt nguồn nhiều truyền thuyết lạ kỳ.
Cây mít hai lõi ở ngôi làng anh em sinh đôi được phong Thành Hoàng
Ngôi làng này vốn có tới 3 vị Thành Hoàng, ngoài đức Thánh Cả được thờ tại đền Đinh Xuyên, đầu làng và cuối làng dựng đền thờ thêm hai vị Thành Hoàng Phạm Thông và Phạm Nhu.
Theo tích xưa truyền lại, hai người này vốn là anh em sinh đôi. Vốn khí chất hơn người, lại thêm tài văn võ thao lược, hai ông cùng nhau chiêu mộ hàng nghìn trai tráng trong làng và các vùng lân cận, lập trận địa bảo vệ làng Đinh Xuyên mỗi khi loạn lạc. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, hai ông mang theo số binh sĩ đã chiêu mộ được, phò tá Hai Bà đánh giặc.
Trong một trận đánh lớn, người anh Phạm Thông đã hy sinh tại trận địa xung yếu Tây Hồ (Hồ Tây ngày nay). Người em Phạm Nhu nghe tin, vô cùng đau xót đã tuẫn tiết theo anh, gieo mình xuống dòng Hát Giang (sông Đáy) để thể hiện khí tiết.
Cảm động trước ân đức to lớn và tình nghĩa tương thân của hai anh em, dân làng Đinh Xuyên phong hai ông là Thành Hoàng và lập đền thờ phụng.
Vì hai ngài “đồng sinh, đồng tử” nên chuyện thờ cúng hay lễ bái, đều phải làm đầy đủ cho cả hai. Người anh được cúng như thế nào, người em cũng phải cúng như thế, không được ai hơn ai kém dù chỉ là chén nước.
Xưa kia, vốn chỉ có đức Thánh Cả thờ ở đình Đinh Xuyên có tượng thờ, hai vị Thành Hoàng Phạm Thông và Phạm Nhu vốn được lập đền sau nên chỉ thờ bài vị tưởng vọng. Người làng muốn làm tượng để thờ các ngài tỏ lòng thành kính nên đã hạ cây mít to sau đình để tạc tượng.
Một cụ cao niên cho biết: “Theo như ông cha truyền lại, cây mít đó khá to nhưng nếu tạc tượng cũng chỉ có thể tạc một pho. Các cụ quyết định làm tượng người anh Phạm Thông. Tuy nhiên, khi hạ gốc mít, người làng phát hiện cây mít có đến hai lõi, lõi ngoài bao bọc, ôm trọn lõi trong giống như tình cảm anh em luôn khăng khít, gắn bó.
Không biết có phải các ngài biết ý định tạc một tượng của người làng hay không mà cây mít kỳ lạ kia lại có đến hai lõi như ám chỉ phải làm tượng cho cả hai ngài”.
Cổ nhân cho rằng đó là lời nhắc nhở của hai vị Thành Hoàng, “việc gì cũng có nhau, không thể có chuyện người anh được tạc tượng, người em thì không” nên quyết định tạc hai pho tượng cho cả hai vị.
“Thói xấu” vừa đi đưa ma, vừa “dự đoán” người xấu số sắp tới
Dù đã có lịch sử hàng trăm năm nhưng ngôi đình Đinh Xuyên và câu chuyện “đồng sinh, đồng tử” của hai vị Thành Hoàng đều được người dân từ già đến trẻ thuộc nằm lòng. Và chính từ tích đó mà bao đời nay, người làng Đinh Xuyên vẫn truyền tai nhau về hiện tượng “sinh đôi, tử cặp” diễn ra tại nơi đây.
Ông Lê Nguyên Bá (73 tuổi) cho biết: “Chẳng có sử sách nào ghi chép lại chuyện này, chỉ do các cụ ngày xưa chiêm nghiệm và truyền tai lại cho con cháu mà thôi. Không biết do đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay “linh ứng” thật, nhưng khi để ý, đúng là có hiện tượng này xảy ra”.
Hiện tượng sinh đôi ở làng Đinh Xuyên tuy không nhiều nhưng so với các vùng lân cận, tỷ lệ các cặp song sinh cao hơn hẳn. Theo các cụ cao niên, chỉ tính riêng khu vực xóm cuối làng, cũng đã có 5 cặp song sinh, cặp hai trai, cặp hai gái hoặc một trai, một gái.
Ngày trước, người làng vẫn coi sinh đôi là “điềm dữ”, hai đứa trẻ song sinh ngay khi sinh ra, phải gửi lên chùa nếu không sẽ đoản mệnh. “Nếu là cặp song sinh một trai, một gái, càng phải cầu cúng cẩn thận. Người ta cho rằng, hai đứa trẻ đó kiếp trước là vợ chồng nên mặc dù là anh em ruột, gia đình đó phải cúng cho vong hồn hai đứa trẻ lấy nhau thì chúng mới sống yên bình được. Nghe là nghe vậy, chứ các cặp sinh đôi làng đều trưởng thành như những người bình thường khác”, một người chia sẻ.
Chuyện sinh đôi vốn không khiến nhiều người làng bận tâm vì nghĩ chuyện đó cũng bình thường, chỉ là tỷ lệ sinh đôi ở làng nhiều hơn nơi khác. Tuy nhiên, hiện tượng “tử cặp” đều khiến họ cho rằng có mối liên hệ với chuyện “đồng sinh, đồng tử” của hai vị Thành Hoàng.
Hiện tượng này xảy ra trong phạm vi cả làng Đinh Xuyên chứ không phải chỉ anh em sinh đôi, cùng huyết thống mới gặp phải. Nếu trong làng có người mất thì người làng biết chắc rằng, chỉ 3 - 5 ngày sau đó, làng sẽ có thêm một “đám hiếu” nữa.
Những cái chết luôn đi theo cặp đôi như vậy và cách nhau khoảng thời gian rất ngắn nên mới có chuyện “hôm nay ở đầu làng có tang sự, hôm sau đã nghe tin cuối làng có người mất”.
Cụ Bùi Văn Lịch (66 tuổi), Chi hội trưởng Hội người cao tuổi thôn Đinh Xuyên cho biết: “Vì hiện tượng này xảy ra rất nhiều lần nên mỗi khi trong làng có người mất, dân làng thường đoán biết trước việc người nào sẽ ra đi tiếp theo. Người dân chủ yếu nhìn vào những trường hợp người đã lớn tuổi hay đang ốm đau khó qua khỏi mà ngầm dự đoán vậy, chứ cũng chẳng có cơ sở gì rõ ràng”.
Suy nghĩ này đã hằn vào nếp sống, nếp nghĩ của một số người địa phương nên dù bất kể người làng chết vì bệnh tật hay tai nạn, người ta đều đinh ninh “ở làng này, đã chết đều phải có cặp”. Có lần, trong hai ngày, ngôi làng này có đến 3 đám tang, mà theo người làng “nếu hai người một cặp, vậy người kia sẽ lẻ ra”.
Người ta bảo nhau chờ xem vài ngày tới, chắc chắn sẽ có thêm người “đi” và quả thật, khoảng 10 ngày sau có thêm một người già trong làng mất vì bệnh. Chuyện này vẫn được truyền tai nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ không coi đó là chuyện đáng sợ, kỳ quái mà cho rằng, việc “tử cặp” một nét lạ trong  văn hóa địa phương, thể hiện tình nghĩa “tương thân” giống như anh em hai vị Thành Hoàng.

Theo Xa lộ pháp luật

HỘI THẢO KHOA HỌC NHÀ THỜ HỌ PHẠM XÃ NHÂN THÀNH

Ngày 3/3/2013, tại Hội trường UBND xã Nhân Thành, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nghệ An phối hợp với UBND huyện Yên Thành, UBND xã Nhân Thành và dòng họ Phạm xã Nhân Thành tổ chức Hội thảo khoa học nhằm hoàn thiện hồ sơ đề nghị UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh cho Nhà thờ họ Phạm xã Nhân Thành.
Nhà thờ họ Phạm là  một trong những dòng họ lâu đời nhất ở vùng đất Nhân Thành được con cháu xây dựng làm nơi phụng thờ tiên tổ của dòng họ trong đó tiêu biểu có một số nhân vật có công với dân với nước như Phạm Khoan Hậu (sinh vào khoảng năm 50 của thế kỷ XVII, là hậu duệ đời thứ 27 của Danh tướng Phạm Cự Lạng) - người được coi là có công đầu trong việc khai cơ lập làng Trang Hói (Văn Hội); Phạm Đức Thạc, ông là con của Phạm Khoan Hậu (sinh vào khoảng năm 80 của thế kỷ XVII) - người được nhân dân tôn làm Thành hoàng của làng vì có công chiêu dân khai hoang mở đất và chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân. Ông được các triều đại phong kiến phong nhiều sắc rồng để ghi nhận công lao của ông và phong tặng: "Dực bảo trung hưng, linh phù chi thần" sau còn gia tặng thêm "Đôn ngưng trung thần".
Ngoài ra tại nhà thờ còn lưu giữ nhiều tài liệu chữ Hán có giá trị như sắc phong, đại tự, câu đối, lạc khoản trên kiến trúc, các hiệu bụt trên long ngai, bài vị, gia phả ... giúp hậu thế nghiên cứu, tìm hiểu về công lao của các vị được thờ tại di tích, đồng thời là nguồn tư liệu quý cho công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn về lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất tổng Quan Triều xưa cũng như lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ Phạm.
Ngoài những giá trị về Lịch sử thì nhà thờ còn có giá trị nổi bật về văn hóa, nghệ thuật đây là nơi biểu hiện rõ nhất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ngàn đời của dân tộc. Các hoạt động văn hóa tín ngưỡng tại di tích phản ánh truyền thống trọng đạo nghĩa và các phong tục tập quán của địa phương, góp phần củng cố tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống, khơi dậy niềm tự hào, tình yêu quê hương làng mạc. Hiện tại di tích còn lưu giữ được 02 tòa kiến trúc cổ và nhiều cổ vật quý, chạm khắc công phu, tinh xảo có giá trị thưởng ngoạn, nghiên cứu tìm hiểu về phong cách kiến trúc của địa phương.
Đặc biệt, Di tích được xây dựng trên một vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời, phong cảnh đẹp gắn liền với công tích và cuộc đời của các nhân vật được thờ phụng; không gian thoáng đãng, bình yên, có khoảng cách không xa với những di tích nổi tiếng như Đền Cả, Khu lưu niệm Bác Hồ về thăm Vĩnh Thành, Đền thờ Sát hải đại vương Hoàng Tá Thốn, Đền thờ Phan Cảnh Quang, Nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu ... nên có nhiều lợi thế trong khai thác và phát huy giá trị di sản.



Nguyễn Anh Võ
Nguồn tin: Huyện Yên Thành

CÁC NHÂN VẬT ĐƯỢC THỜ TỰ TẠI DI TÍCH NHÀ THỜ HỌ PHẠM VĂN XÃ LONG THÀNH

Nhà thờ họ Phạm Văn đại tôn xã Long Thành, huyện Yên Thành là công trình kiến trúc cổ, dùng để thờ tự nhiều nhân vật có công với dân với nước, và là nơi lưu giữ nhiều hiện vật cổ có giá trị cho việc nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử địa phương cũng như lịch sử dân tộc. Trong số các nhân vật thờ tự tại nhà thờ, tiêu biểu có các ông Phạm Nhân Mỹ, Phạm Đỉnh.
Hội thảo khoa học nhà thờ họ Phạm Văn đại tôn
1. Phạm Nhân Mỹ: tự là Công Nghiên sinh vào đời vua Lê Nhân Tông, quê ở thôn Thọ Lộc, xã Vân Tra, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh hải Dương (nay thuộc xã Vân Tra, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông xuất thân trong một gia đình khá giả, gia giáo, được ăn học tử tế.
Vào thời Lê Hồng Đức nguyên niên (1470), Ông cùng các ông Phạm Công Lai, Phạm Mễ và một số người họ Dương, họ Trần, họ Nguyễn di cư vào Đông Thành để khai cơ lập nghiệp
Bấy giờ vùng đất này có tên là kẻ Thạng, đất đai còn hoang hóa, lau sậy rậm rạp, nước mặn ngập úng, chưa có dân cư sinh sống nhưng có lợi thế là đất rộng, lại nằm kề sông và khe suối, rất thuận lợi cho việc sản xuất, phát triển nông nghiệp, nên ông Phạm Nhân Mỹ cùng các ông trong đoàn chọn làm đất lập nghiệp.
Sau 03 năm bỏ nhiều tiền của và công sức chặt cây, phát cỏ, đào mương, đắp đập, khơi thông dòng nước ngọt từ khe Ồ Ồ, khe Vỡ Òa, sông Thạng để thau chua, rửa mặn, ông và nhân dân địa phương đã khai hoang được 18 xứ để canh tác lúa, ngô, khoai ... đó là các xứ Duy Ngu, Nương Bòng, Tiền Chi Ngưu, Hậu Chi Ngưu, Bảo Sàng, Đồng Trọc, Hội Cần, Kim Sơn ...
Với sự miệt mài của ông và nhân dân, từ một vùng đất không một mái nhà nay đã được cải tạo thành một vùng ruộng đồng xanh tốt, cuộc sống dần dần ổn định, kinh tế phát triển nên đã thu hút được dân nghèo phiêu bạt về đây sinh sống xây dựng cuộc sống ấm no, trù mật.
Sau khi ông mất, nhân dân đã tôn ông làm Thành hoàng và lập đền thờ phụng ngay trên mảnh đất ông khai canh. Năm 1894 Vua Thành Thái đã ban sắc phong cho ông là "Dực bảo Trung hưng Linh phù chi thần". Sau khi đền hỏng, để tiện việc hương khói nên dòng họ đã quyết định sát nhập vào nhà thờ dòng họ nằm kề bên để phụng tờ chung.
2.Phạm Đỉnh: Ông là hậu duệ đời thứ 9 của dòng họ, sinh vào thời Vua Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) tại xã Tiên Thành, huyện Đông Thành. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, mẫn tiệp, lại rất có tài trong các trò chơi đánh trận giả. Năm 1768, Ông gia nhập quân đội phù trợ nhà Lê Trung hưng, do có tài thao lược nên nhanh chóng được phong làm Bách hộ ưu binh ở cơ Tiền Tiệp.
Cuối năm Kỷ Sửu (1769), triều đình đã phải huy động một lực lượng lớn đi trừ quân phiến loạn ở Ai Lao mà chủ yếu là thành Trình Quang. Bấy giờ Phạm Đỉnh đi theo đạo quân Nghệ An do Bùi Thế Đạt chỉ huy vượt địa hình núi non hiểm trở tiến thẳng vào Trình Quang, Trấn Ninh - sào huyệt của quân nổi dậy do Lê Duy Mật cầm đầu. Phạm Đỉnh chỉ huy binh lính bắc chòi cao nhòm sanh mà bắn khiến cho các nơi đóng quân của quân Lê Duy Mật đều tan vỡ, Trấn Ninh bình định xong.
Năm 1776, Phạm Đỉnh đã cùng các thống lĩnh Bùi Thế Đạt, Hoàng Ngũ Phúc ra trận, thúc quân tiên phong, phá lũy tiến đánh vùng Thuận Quảng, phá tan được sào huyệt ở Phú Xuân. Với chiến thắng này, Vua Lê đã ban sắc phong thăng cho Phạm Đỉnh chức "Phó thiên hộ chức, tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh ty, kỳ bài tráng sỹ".
Sau khi Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ, bỏ bê triều chính, truất ngôi Thế tử Trịnh Khải, đưa con của Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán lên thay; Đặng Mậu Lân, em trai Đặng Thị Huệ cậy thế làm càn, ức hiếp dân lành. Phạm Đỉnh tham gia vào đội Tiền Tiệp đứng đầu là Nguyễn Bằng, phối hợp với linh ưu binh bao vây phủ chúa, phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa cho đúng với đạo lý, hợp lòng dân. Sau sự kiện này, triều đình Lê - Trịnh xét công ban thưởng. Ông được triều đình phong sắc rằng: Sắc cho Bách hộ Phạm Đỉnh ở xã Tiên Thành, huyện Đông Thành. Vì năm Nhâm Dần (1782), Tự vương ngự ngôi vương vị, chuẩn thưởng cho khắp chư quân phù tá có công. Ngươi là Ưu binh ở cơ Tiền Tiệp một lòng giúp trẫm nên có thể tặng thưởng, đã có chỉ chuẩn thăng chức một lần, lại khâm thưởng một lần, đáng làm chức Phó Thiên hộ, có thể làm Tráng tiết tướng quân Hiệu lệnh ty xuy kim tráng sỹ thiết kỵ úy Phó Thiên hộ, trung liệt. Ngày 26 tháng 02 năm Cảnh Hưng thứ 44.
Nhận thấy vận mệnh của vua Lê chúa Trịnh đã đến lúc lụi tàn, ông xin về quê cũ sống chan hòa với dân làng và tiếp tục công việc khai canh, phát triển sản xuất. Sau một thời gian thì Ông lâm bệnh qua đời, được triều đình phong làm thần và cho lập miếu thờ Ngài ở làng Văn Thành (nay thuộc xóm Bắc Sơn xã Bắc Thành). Năm 1968, miếu thờ Ngài bị hư hỏng nên dòng họ quyết định rước Ngài về thờ tại nhà thờ.
Các hoạt động tế lễ tại nhà thờ là nhằm để tưởng niệm những người có công với dân, với nước, thể hiện đạo lý "Uống nước, nhớ nguồn", đồng thời phản ánh phong tục tập quán, tín ngưỡng của nhân dân, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, ý thức hướng về cội nguồn nhằm cố kết cộng đồng làng xã. Với những ý nghĩa trên, ngày 3/7/2013, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nghệ An, đã phối hợp với UBND huyện Yên Thành, UBND xã Long Thành và con cháu dòng họ tổ chức Hội thảo nhằm hoàn thiện Hồ sơ trình UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh cho Nhà thờ.



Nguyễn Anh Võ
Nguồn tin: Huyện Yên Thành

HỌ PHẠM ĐẠI TÔN XÃ LONG THÀNH ĐÓN NHẬN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA

Ngày 01/8/2013, tại Hội trường UBND xã Long Thành, UBND huyện Yên Thành phối hợp với UBND xã Long Thành và con cháu dòng họ Phạm long trọng tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh cho Nhà thờ họ Phạm đại tôn làng Giáp Bổn.
Về tham dự lễ đón nhận ở tỉnh có đồng chí Đoàn Văn Nam - Trưởng phòng Quản lý Di sản sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đồng chí Nguyễn Văn Thanh - Trưởng ban Quản lý Di tích và Danh thắng và các đồng chí đại diện cho các phòng, ban cấp tỉnh; ở huyện có đồng chí Nguyễn Viết Hưng - Phó chủ tịch UBND huyện và các đồng chí đại biểu đại diện cho các phòng, ban, ngành, đơn vị cấp huyện; ở xã Long Thành có các đồng chí đại diện cho Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ và các ban, ngành, đoàn thể cấp xã cùng đông đảo con cháu dòng họ Phạm về dự.
Nhà thờ họ Phạm đại tôn xã Long Thành là công trình kiến trúc thời Nguyễn, có bố cục chặt chẽ, kết cấu vững chắc, nguyên xưa nơi đây là ngôi đền thờ ông Phạm Nhân Mỹ (vị tổ của dòng họ). Mặc dù trải qua các cuộc chiến tranh, thiên tai, nhà thờ được con cháu trùng tu nhiều lần song kiến trúc vẫn giữ nguyên được nét nguyên bản như ban đầu, là nơi để thờ các bậc tiên tổ của dòng họ như Phạm Nhân Mỹ, Phạm Đỉnh...
Dòng họ Phạm làng Giáp Bổn xã Long Thành nguyên quán ở thôn Thọ Lộc, xã Vân Tra, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đến đời ông Phạm Nhân Mỹ đã di cư đến làng Tiền Thành, xã Tiên Thành, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu khai cơ lập làng và hình thành nên dòng họ Phạm tại đây. Sau khi chết, ông được nhân dân tôn làm Thành hoàng làng và lập đền thờ. Ghi nhận công lao của ông, Vua Thành Thái đã sắc phong cho ông là "Dực bảo trung hưng, linh phù chi thần". Đến đời thứ 9 của dòng họ có ông Phạm Đỉnh là người có công trong công cuộc phù Lê nên ông được Vua Lê phong tước "Phó thiên hộ chức, tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh ty, kỳ bài tráng sỹ".
Với những giá trị lịch sử, văn hóa của nhà thờ còn lưu giữ là cứ liệu lịch sử gốc quan trọng để tìm hiểu về con người của dòng họ đã có công khai cơ lập làng đồng thời góp phần tìm hiểu, nghiên cứu sự hình thành làng, xã địa phương thời Lê Thánh Tông cũng như tìm hiểu về cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và sự kiên kiêu binh nổi loạn thời kỳ Vua Lê - Chúa Trịnh, ngày 18/7/2013, UBND tỉnh Nghệ An đã ký Quyết định số 3052/UBND công nhận Nhà thờ họ Phạm đại tôn là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đây là niềm vinh dự, tự hào của huyện Yên Thành, xã Long Thành nói chung  và của con cháu dòng họ Phạm nói riêng và là cơ sở pháp lý để chính quyền các cấp và con cháu dòng họ bảo tồn và phát huy hơn nữa giá trị của Di tích để nhà thờ họ Phạm mãi xứng đáng với lịch sử vốn có góp phần làm giàu thêm truyền thống văn hóa của quê hương Yên Thành đất lành nhân kiệt.
Một số hình ảnh tại lễ đón nhận di tích:









Nguyễn Anh Võ
Nguồn tin: Huyện Yên Thành

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

Sự tích đình Châu Bộ, Hải Dương

Đình Châu Bộ gắn liền với đền An Phụ, nơi tôn thờ An Sinh Vương Trần Liễu, nơi có tượng đài Trần Hưng Đạo đẹp vào loại bậc nhất ở nước ta.


Nằm ở phía Nam dãy núi An Phụ, di tích đình Châu Bộ xã Hiệp Hoà nằm trong quần thể di tích của huyện Kinh Môn, gắn liền với đền An Phụ, nơi tôn thờ An Sinh Vương Trần Liễu, nơi có tượng đài Trần Hưng Đạo (Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) đẹp vào loại bậc nhất ở nước ta. Xa  hơn có chùa Nhẫm Dương, ngôi chùa được kiến tạo từ thời Trần, nơi ghi dấu ấn của nhiều triều đại phong kiến; đình Huệ Trì nơi tôn thờ 2 nữ tướng của Hai Bà Trưng là Thiện Nhân và Thiện Khánh,…Tất cả tạo thành một trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng, điểm dừng chân của nhiều du khách thập phương về chiêm bái.

Ngược dòng lịch sử, vào thời Hùng Vương, vùng đất Hiệp Hoà thuộc bộ Dương Tuyền, thời Hán thuộc quận Giao Chỉ, đến thời Lý - Trần, thuộc lộ Đông Hải. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) phân định bản đồ và lập phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Thời thuộc Pháp, Hiệp Hoà gồm 3 làng: Làng Đước (Đích Sơn), làng Than (An Bộ) và làng Châu (Châu Bộ) thuộc tổng Đích Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ, đến tháng 4 năm 1946 thực hiện chủ trương hợp nhất của huyện 3 làng Đích Sơn, An Bộ, Châu Bộ hợp nhất thành xã Hiệp Hoà, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Xã có 19 dòng họ trong đó dòng họ Đinh được ghi nhận là "tiên công lập ấp". Trong quá trình hình thành và phát triển, các dòng họ chung sống đoàn kết, góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh.

Là mảnh đất hình thành khá sớm trong lịch sử, nhân dân Hiệp Hoà cùng với việc lập làng, khai khẩn đất đai đã xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Song, trải qua thời gian và chiến tranh, nhiều công trình đã bị tàn phá và xuống cấp nghiêm trọng. Hiện nay các công trình còn lại là đình Đích Sơn (thôn Đích Sơn) và đình An Bộ (thôn An Bộ), đình Châu Bộ (thôn Châu Bộ). Những di tích đã bị tàn phá, nay được chính quyền và nhân dân địa phương từng bước khôi phục lại.

Đình Châu Bộ mặt tiền quay về hướng Tây Nam, cửa đình nhìn ra sông Phùng Khắc uốn khúc, quanh năm trong mát. Theo dòng lịch sử, đình Châu Bộ gắn bó tự nhiên với thôn từ khi hình thành và trở thành niềm tự hào của nhân dân địa phương. Di tích đã được UBND tỉnh Hải Dương xếp hạng là di tích Lịch sử văn hoá ngày 01 tháng 11 năm 2005 theo Quyết định số 4981/ QĐ - UBND.

Về niên đại ngôi đình đến nay vẫn chưa có tài liệu tin cậy để xác định, theo các cụ già cao tuổi cho biết đình xưa có kiến trúc chữ Nhị (=), gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung. Năm 1947 giặc Pháp càn qua làng, đã bơm xăng đốt phá làm cho 3 gian hậu cung bị cháy và hư hỏng nặng, chỉ còn lại 5 gian đại bái được giữ nguyên cho đến ngày nay.

Năm 2002, thể theo nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, chính quyền địa phương đã cho khôi phục 3 gian  hậu cung đình trên nền cũ với quy mô nhỏ, phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng chung. Công trình kiến trúc hiện nay kiểu chữ  Nhị (=) gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung, chất liệu gỗ tứ thiết còn khá chắc chắn, mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn.

Phần trang trí điêu khắc nghệ thuật của di tích được tập trung thể hiện  tại hệ thống bờ nóc và đặc biệt là 10 bức cốn gỗ tại gian giữa toà đại bái. Thông qua bàn tay tài hoa, khéo léo của các hiệp thợ ngoã, mộc phối hợp. Thợ ngoã đắp vẽ "lưỡng long chầu nguyệt". Thợ mộc chạm khắc cốn "ngự long huý thuỷ", "tùng trúc hoá long", "tứ linh", "tứ quý" mềm mại, sống động. Các "linh vật" trong nhiều tư thế khác nhau, song cùng chầu về gian thờ chính đã tạo nên một không gian thờ tự đặc biệt linh thiêng, thu hút lòng người.

Mặc dù trải qua nhiều biến động của tự nhiên - xã hội và được trùng tu, tôn tạo ở những giai đoạn sau này, song di tích đình Châu Bộ vẫn giữ  được vẻ đẹp của một ngôi đình cổ và là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thời Nguyễn trên mảnh đất xứ Đông.

Căn cứ vào bia Thần phả, lưu giữ tại di tích do Hàn Lâm viện Đông Các Đại học sĩ (thần) Nguyễn Bính phụng soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiếu khanh (thần) Nguyễn Hiền tuân theo bản chính phụng sao vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), Hoàng triều Tự Đức thứ 17 (1864) cho biết, đình Châu Bộ, xã Hiệp Hoà, huyện Kinh Môn là nơi tôn thờ ba vị Thành hoàng là Bà Phạm Thị Ngọc và hai con là Đặng Tuấn và Đặng Võ là những người đã có công giúp vua Trần dẹp giặc và là người mở trường dạy học cho các cư dân trang Châu Bộ cuối thế kỷ XIII.

Thần phả đình Châu Bộ có ghi: "... bấy giờ, thế truyền tại trấn Thanh Hoa, phủ Thiệu Thiên, huyện An Định, trang Đặng Xá có một danh gia lệnh tộc, họ Đặng, tên huý là Tùng, lấy vợ tại bản trang tên là Phạm Thị Ngọc, thuộc dòng dõi nhà nho, chuyên làm nghề dạy học. Ông bà ăn ở với nhau hoà thuận, thảo hiền cho đến khi bà Ngọc 40 tuổi mới sinh một lần được hai con trai, bèn đặt tên cho con ra trước là Đặng Võ, em là Đặng Tuấn. Năm đó chẳng may thân phụ bị bệnh qua đời (tức ngày  mồmg 3 tháng 7), để lại cho bà Ngọc 2 con trai còn thơ dại. Ngọc Nương nuôi dậy hai con học tập, đến khi hai con 15 tuổi, học tập tinh thông, văn chương quán triệt. Nhưng than ôi! Gia đình nghèo khó, không kế sinh nhai. Ba mẹ con liền hành trình đi nơi khác, qua bốn ngày đến trang Châu Bộ, huyện Hiệp Sơn, tỉnh Hải Dương. Mấy mẹ con thấy nơi đây sơn thuỷ hữu tình, liền ở lại bản trang (tức trang Châu Bộ). Năm đó bỗng có giặc Nguyên đến xâm chiếm, vua nghe tin lập tức dẫn quân đến đánh. Qua địa giới trang Châu Bộ, huyện Hiệp Sơn, thấy ba mẹ con dung mạo đường hoàng, khác hẳn người thường, vua liền cho vời đến hỏi: "Nay quốc gia của Trẫm có giặc xâm chiếm, các người có tài giúp Trẫm đánh giặc cứu nước". Anh em Võ công và Tuấn công đều tâu: "Anh em chúng thần vẫn còn mẹ già không sự nghiệp, chỉ lấy việc mở trường dậy học làm đẹp lòng cha đã khuất". Vua lại bảo Nhị công "Nay quốc gia có sự, nhị công giúp nước dẹp yên được giặc tất sẽ được phong thêm tước vị". Nhị công thấy Vua nói vậy liền cùng thừa lệnh xin trợ giúp Thánh Giá (Vua) xuất binh dẹp giặc. Vâng mệnh chiếu nhà Vua, Nhị công cùng từ mẫu đã chiêu mộ được 7 người là những cư dân của trang Châu Bộ làm gia tướng cho mình, là các ông: Phạm Công Toàn, Đỗ Công Khánh, Đào Công Nhân, Đỗ Công Trứ, Nguyễn Công Đinh, Lê Công Bản và Vũ Công Đồng. Nhờ sắc đẹp của bà Phạm Thị Ngọc và tài thao lược của 2 con nên đã đánh nhiều trận thắng lớn, bắt được nhiều tù binh.

Nơi biên cương đã trở lại thanh bình, ngày khải hoàn, vua liền mở yến chúc mừng, khao thưởng quân sĩ và lập tức phong chức cho Thái bà là "Mẫu nghi thiên hạ, đoan mục Hoàng Thái Hậu".Đệ Nhất Công làm "Tả dực Đại Tướng quân" kiêm "Tham tán mưu sự uy linh Đại Vương". Đệ Nhị Công làm "Hữu dực Đại Tướng quân, quyền trưởng các giang đầu uy linh Đại Vương". Các gia thần đều được ban thưởng, phong làm "Thái Thú".

Thái bà cùng 2 con Đặng Võ và Đặng Tuấn sau khi nhận phong của vua ban cùng tâu xin được về trang Châu Bộ để mở tiệc mời làng. Được một tháng, Thái bà nhàn du cảnh chùa (tức chùa Tôn Linh - chùa Tông ngày nay) hôm đó, tự nhiên trời đất tối sầm, mưa gió nổi lên dữ dội, Thái bà tự nhiên hoá ngay tại chùa (tức ngày 10 tháng Giêng). Nhị công nghe tin thân mẫu mất, cùng đến bản chùa, vừa đến khu địa giới của bản chùa cũng tự nhiên hoá (tức ngày 12 tháng 3). Nhân dân ra xem đã thấy thổ trùng phong thành ngôi mộ lớn. Mọi người cho là lạ, (sau tục gọi là đống Mả Ông (tức đống Ông)) liền hành biểu tâu lên vua. Vua nghe tin liền lệnh cho sứ thần đến bản trang để hành lễ điếu tại gia đường trường học, hương hoả phụng thờ. Lại ban cho nhân dân tiền chung 300 quan để phụng thờ mãi mãi".

Hằng năm cứ vào độ xuân về, nhằm ngày 12 tháng Giêng nhân dân Châu Bộ lại nô nức tổ chức lễ hội truyền thống tưởng niệm ngày mất của Đặng Võ và Đặng Tuấn. Theo điển lệ, từ chiều ngày 12 tháng Giêng, đông đảo các tầng lớp nhân dân ra đình tổ chức rước long đình. Lực lượng tham gia rước gồm nam thanh, nữ tú khoẻ mạnh phải "chay tịnh" từ nhiều ngày trước. Lễ rước xuất phát từ đình, đi theo hướng Tây vào trong làng và đi xung quang làng về hướng Đông rồi quay lại đình.

Khi đoàn rước về tới đình làng, việc tế lễ diễn ra rất long trọng và do các cụ ông trực tiếp thực hiện, lễ hội kết thúc vào ngày 13 tháng Giêng. Tuy nhiên, lễ hội chính của đình Châu Bộ, thu hút đông đảo nhân dân tham gia lại là lễ giã đám vào ngày 13 tháng Giêng, đó là tục chạy cờ để tiễn 7 vị gia tướng của 3 mẹ con là: Phạm Công Toàn, Đỗ Công Khánh, Đào Công Nhân, Đặng Công Trứ, Nguyễn Công Đinh, Lê Công Bản, Vũ Công Đồng. Trong làng cử ra 7 thanh niên mặc áo lậu, thắt  lưng bối hậu chạy về 7 điểm, đó là: về Đình; về cửa miếu Tông (cách đình khoảng 300m); về đống Bính (cách đình khoảng 500m); về đống Lỗ Vàng (cách đình khoảng 800m); Về Ao nhà Mát (cách đình khoảng 500m); về đống Thổ Công (cách đình khoảng 1km); về đống Bồ Đê (cách đình khoảng 1km). Điểm xuất phát từ nghè, ai chạy nhanh nhất đến đình thì cắm cờ trước, còn lại phải chạy tiếp về các đống trên để cắm cho được lá cờ của mình. Đây là một hoạt động tín ngưỡng mang dấu ấn tượng trưng, nhằm khắc hoạ lại hình ảnh mẹ con bà Phạm Thị Ngọc khi chiêu mộ quân sĩ, tuyển chọn gia thần, muốn thử tài thao lược, trí thông minh các gia tướng của mình. Sau đó là tục thả thuyền rồng, cũng mang nét tượng trưng cho phương tiện xuất phát từ nơi đây đến nơi biên ải của 2 ông và cũng nhờ vào những chiến thuyền này mà đưa 3 mẹ con bà Phạm Thị Ngọc trở lại với cư dân của trang Châu Bộ. Tục lệ này sau vẫn diễn ra. Đây là một trong nhưng lễ hội hết sức độc đáo, thu hút đông đảo tầng lớp nhân dân trong làng và các vùng lân cận tham gia, vì người ta cho rằng đó là lúc con người như được tiếp xúc với thần linh, tự hào về quá khứ của mình, cân bằng trong tâm linh, bản thân như được hoà nhập vào cái vô cùng cao cả của trời đất.

Trong cuộc sống thường nhật, người dân nơi đây từ lâu đã hình thành phong tục kiêng tên "huý", điều đó thể hiện sự biết ơn, lòng tôn kính đối với ba vị Thành hoàng làng.

Hiện nay di tích còn lưu giữ được một số cổ vật có giá trị như: Hệ thống ngai thờ, bài vị (03), đại tự, câu đối, bát bửu, nhang án mang đậm dấu ấn nghệ thuật Nguyễn; 2 tấm bia thế kỷ XIX trong đó có một bia thần phả ghi lại hành trạng, công lao của các vị Thành hoàng. Tất cả đồ thờ tự được bài trí xắp xếp cân đối trang trọng trong ánh sáng của hương nến, đã tạo cho di tích một không gian thờ tự linh thiêng, huyền diệu.

Với truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", tôn vinh những người có công với nước, các thế hệ nhân dân thôn Châu Bộ, xã  Hiệp Hoà đã tự nguyện đóng góp nhiều công sức, tiền của để trùng tu, tôn tạo di tích. Di tích đình Châu Bộ không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương, mà còn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho cán bộ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Nguồn:http://dulichvn.org.vn

Di tích và việc thờ cúng Mai Thúc Loan - Theo dòng thời gian


I. Di tích Ở Nam Đàn, theo thống kê của Ninh Viết Giao (1), có 12 di tích thờ Mai Hắc Đế và các nhân vật liên quan đến vua và cuộc khởi nghĩa Hoan Châu, gồm: 7 di tích ở xã Vân Diên: 5 di tích ở làng Đức Nậm, 1 di tích ở làng Nậm Đông, 1 ở làng Nghi Lễ; 3 di tích ở xã Nam Thái: 1 ở làng Yên Thịnh, 1 ở làng Đồng Xuân, 1 ở làng Ngọc Trừng; 1 di tích ở xã Khánh Sơn: ở làng Đông Sơn; 1 di tích ở xã Nam Thượng: ở làng Khả Lãm.
Trong số 12 di tích trên, các nhân vật được thờ cụ thể là: 6 di tích thờ Mai Hắc Đế gồm: đền Vua Mai (làng Đức Nậm, Vân Diên), đền Sa Nam (ở làng Nghi Lễ, Vân Diên), đền Cả (ở làng Yên Thịnh, xã Nam Thái), đền Rú Dẻ (ở làng Ngọc Trừng, xã Nam Thái); đền Cả (ở làng Đông Sơn, xã Khánh Sơn, phối tự với Trần Hưng Đạo, Tống Tất Thắng, Cao Sơn Cao Các), đền Khả Lãm (làng Khả Lãm, xã Nam Thượng, phối tự cùng một vị tướng đời Lê). 4 di tích thờ tướng sĩ của vua Mai ở làng Đức Nậm gồm: đền Ngọc Đái (thờ Ba Đội hầu, tướng đứng hàng đầu của Mai Hắc Đế), đền Biều Sơn (thờ Nguyễn Huynh, tướng của Mai Hắc Đế), đền Liêu Sơn (thờ Nguyễn Đệ, em Nguyễn Huynh, cũng là tướng của Mai Hắc Đế), đền Võ Miếu (trước thờ Quan Vũ, sau thờ các tướng sĩ của Mai Hắc Đế). 2 di tích thờ người thân của vua Mai gồm: đền xóm Đông Bu, làng Nậm Đông, xã Vân Diên (thờ Mai Thiếu Đế, con trai út của Mai Hắc Đế), miếu ở làng Đồng Xuân, xã Nam Thái (thờ mẹ vua Mai).
Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi và theo các tài liệu khảo cứu mới nhất, thống kê của Ninh Viết Giao có một chút nhầm lẫn. Ở di tích Rú Dẻ, Ninh Viết Giao cho rằng, đó là di tích thờ Mai Hắc Đế. Tuy nhiên ông đã cẩn thận chú thích một dấu chấm hỏi sau thống kê này (tr. 310, sách Tục thờ thần và thần tích Nghệ An), bởi thực ra, di tích Rú Dẻ là lăng mộ mẹ vua Mai.
Khảo sát thực địa cho thấy, trong số 12 di tích thờ vua Mai trên đất Nam Đàn theo thống kê của Ninh Viết Giao hiện nay chỉ còn có 6: đền thờ vua Mai (khối Mai Hắc Đế, thị trấn Nam Đàn), khu miếu mộ vua Mai (dưới chân núi Đụn thuộc xã Vân Diên), khu mộ thân mẫu vua Mai (trên đồi Dẻ, thôn Ngọc Trừng, xã Nam Thái), miếu thờ Mai Thiếu Đế (núi Đụn, xã Vân Diên), đền Nậm Sơn thượng tướng (làng Nậm Sơn, xã Vân Diên), đình Khả Lãm (đền Khả Lãm nay không còn, bài vị vua được thờ ở đình Khả Lãm, xã Nam Thượng). Hai ngôi đền thờ vọng ông được phát hiện thêm là: đền Độc Lôi (xã Nam Giang), đền Chí Thiện (xã Nam Cát)(2); chùa Nàng Hai nay không còn(3) và Cồn Chèn, tương truyền đó là nơi vua Mai sinh ra (mới được xây dựng lại năm 2012 bằng nguồn vốn xã hội hóa, xuất phát từ tâm nguyện của người dân nơi đây, hiện nay cũng vẫn chưa hoàn tất). Như vậy, tổng số di tích thờ cúng vua Mai và các nhân vật liên quan ở Nam Đàn theo các nguồn thống kê là 16 di tích.
Ở làng Mai Lâm, xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh có 2 di tích (1 đền thờ Mai Thúc Loan và 1 nhà thờ họ Mai)(4).
Ở Hải Phòng có 6 di tích thờ vua Mai và các nhân vật liên quan tới vua là 3 ngôi đình là: đình Nhu Thượng, đình Nhu Kiều và đình Văn Xá; 2 ngôi miếu là Miếu Một (phần mộ Kiều Nương công chúa Mai Thị Cầu), Miếu Đôi (phần mộ Bạch đế hoàng tử Mai Kỳ Sơn), 1 nhà thờ dòng họ Mai ở Tiên Lãng, Hải Phòng(5).
Cụm di tích tại phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội có 4 di tích: đền Dục Anh (thờ bà Phạm Thị Uyển, tương truyền là vợ hai của Mai Hắc Đế), đình Trong và đình Ngoài (thờ ba chị em bà Phạm Thị Uyển: bà và hai người em là Phạm Huy và Phạm Miện có công đánh giặc Đường), đền thờ Mai Hắc Đế.
Theo thống kê của cuộc điều tra di tích của Viện Viễn đông Bác cổ từ năm 1928 đến năm 1938 được biên soạn trong cuốn Thư mục thần tích, thần sắc do Viện Thông tin Khoa học Xã hội thực hiện, chỉ có một di tích thờ vua Mai được kê khai và thống kê nhưng lại bị viết nhầm tên là Mai Khắc Đế. Đó là di tích ở làng Nghi Lễ, tổng Xuân Khoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thần tích của đền thờ này hiện được lưu ở Viện Thông tin KHXH bằng 13 trang chữ Pháp(6). Ngoại trừ một chi tiết nhầm lẫn (năm bắt đầu cuộc khởi nghĩa được chép là 722), tài liệu đã cung cấp những thông tin quý: một truyện kể dân gian với khá nhiều chi tiết lạ, mô tả vẻ nguy nga của ngôi đền thờ Mai Hắc Đế ở làng Nghi Lễ vào năm 1937, khẳng định tính thiêng của ngôi đền và đặc biệt, cho ta biết rằng, còn có một ngôi đền lớn thờ Mai Hắc Đế ở tổng Xuân Liễu, có ngôi đền ở chân núi Đụn thờ vua và có biết bao ngôi đền thờ các vị tướng của vua Mai đã bị đổ nát. Tình trạng này cũng đã được Trần Bá Chí nói đến trong bài viết của ông năm 1964: “Chung quanh thành Vạn An, cách thành khoảng 300 mét đến 3.000 mét, còn di tích một số đồn lũy bảo vệ quốc đô, mỗi đồn có một ngôi đền thờ vị tướng cầm đầu, đến nay các đền đó đều đã bị hỏng gần hết”. Điều này quả thực gây cho tôi một sự nuối tiếc lớn. Bên cạnh đó, bản thần tích làng Nghi Lễ nói trên còn cho ta biết, đền Mai Hắc Đế ở làng Nghi Lễ có 22 đạo sắc phong. Vào thời điểm đó, đền có đồ thờ là đai lưng bằng nhung, giá trống bằng gỗ sơn, và đặc biệt, có hai bức tượng người Chăm đang quỳ. Đây chắc chắn là tài liệu quý, bổ sung cho những giả thiết, những nghiên cứu đang bỏ dở của các nhà nghiên cứu đi trước về vấn đề nguồn gốc của Mai Thúc Loan (7), và mong muốn từ đây để đi sâu nghiên cứu về sự liên kết của Mai Thúc Loan với các nước láng giềng, trong đó có vương quốc Lâm Ấp.
Ở Hà Nội, một số thư tịch Hán Nôm chép đền thờ Mai Hắc Đế được thờ ở núi Khán hoặc núi Sưa.
Núi Sưa còn có tên là Xuân Sơn, được ghi trong Tây Hồ chí. Sách có đoạn chép: “Trên núi Xuân Sơn phía Nam hồ Tây trong xuống ao Hải Trì có đền Mai Hắc Đế”. Gọi núi Sưa và Xuân Sơn có lẽ vì nó nằm ở phường Khán Xuân cũ. Vì những dòng này, đã có sự nhầm lẫn hai ông “Hắc Đế” (Huyền thiên Hắc Đế và Mai Hắc Đế) trong một thời gian khá dài, và từ đó, làm nảy sinh những tranh cãi về ba ngọn núi thiêng của Thăng Long xưa là núi Nùng, núi Khán và núi Sưa. Ngày mùng 7 Tết Quý Tỵ vừa rồi, chị Đang là thủ nhang đền Dục Anh (nơi thờ bà Phạm Thị Uyển, tương truyền là vợ vua Mai Hắc Đế) cho tôi biết, thủ nhang đền thờ núi Sưa đã xuống đền Dục Anh và muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa đền núi Sưa và đền Dục Anh vì những nhân vật được thờ trong hai ngôi đền có liên quan với nhau. Tôi đã gặp trực tiếp chị Vân, người trông coi ngôi đền núi Sưa 25 năm nay và được chị cho biết, vị thần được thờ trong ngôi đền này như được ghi rõ trên tấm bảng ở cửa đền là Huyền thiên Hắc Đế; tuy nhiên, chị cũng xác nhận việc đến đền Dục Anh và bày tỏ sự băn khoăn muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhân vật này. Các ông trong Ban Quản lý di tích cụm Hòa Mục, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội cũng mong được biết rõ về sự liên hệ giữa các di tích và các nhân vật được thờ ở các di tích liên quan đến Mai Hắc Đế và Mai hoàng hậu Phạm Thị Uyển mà họ đang thờ cúng ở cụm di tích tại địa phương. Như vậy, điều nhầm lẫn trong thư tịch cũ đã để lại một ấn tượng dai dẳng cho chính cả người làm việc thờ cúng trong di tích đến hơn một thế kỷ sau. Thực ra, nghi vấn này đã được nhà Hà Nội học Vũ Tuân Sán trả lời bằng sự phân tích xác đáng từ kết quả cuộc điều tra, khảo cứu công phu cách đây non nửa thế kỷ. Ông viết: “Về vị thần được thờ phụng, Tây Hồ chí đã nhầm Huyền Thiên Hắc Đế họ Lý ở đây là một nhân vật truyền thuyết với Hắc Đế họ Mai tức Mai Thúc Loan ở Nghệ An, một nhân vật lịch sử đã khởi nghĩa chống lại bọn đô hộ nhà Đường”(8). Sách Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long khi nhận xét về Tây Hồ chí cũng đã viết: “Vì là công trình của một cá nhân và đang ở dạng bản thảo chưa thật hoàn chỉnh nên Tây Hồ chí không tránh khỏi một số khiếm khuyết như trong sản vật vùng Hồ Tây còn thiếu chim sâm cầm, nhầm đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế trên núi Xuân Sơn (núi Sưa trong vườn Bách Thảo hiện nay) là đền thờ Mai Hắc Đế”. (Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long).
Như vậy, nhân vật được thờ trong ngôi đền trên núi Sưa đã được xác định là Huyền Thiên Hắc Đế chứ không phải Mai Hắc Đế. Tuy nhiên, vẫn còn một chi tiết tồn nghi xung quanh việc thờ Mai Hắc Đế trên một trong ba ngọn núi thiêng này. Sách Thăng Long cổ tích khảo chép: “Đền trên núi Khán Sơn thuộc thôn Khán Xuân, phía Nam hồ Tây Hà Nội, thờ Mai Thúc Loan người huyện Thạch Đường tức huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, khởi nghĩa chống nhà Đường năm Khai Nguyên thứ 10 (722), tự xưng là Hắc Đế, đóng đô ở núi Hùng Lĩnh tức núi Đụn, giữ vững được 13 năm thì mất”(9). Trong bài viết đã dẫn ở trên, Vũ Tuân Sán đã bác bỏ lập luận của một số nhà nghiên cứu cho rằng, núi Khán chính là ngọn núi (thực ra là một gò đất cao) trong vườn Bách Thảo ngày nay. Ông viết: “Vậy núi Khán ở đâu? Sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội và Lược sử tên phố Hà Nội có lẽ đã dựa vào bản đồ năm 1831 và 1866 mà cho rằng núi này là gò đất trong vườn Bách Thảo. Việc kiểm tra lại bằng cuộc điều tra tại chỗ và các thư tịch cũ cho phép khẳng định rằng, Khán Sơn không thể ở vị trí đó, mà nó nằm trong nội thành của triều Nguyễn”. Núi Khán nay không còn, vì vậy, việc tồn tại một ngôi đền thờ Mai Hắc Đế trên núi Khán như Thăng Long cổ tích khảo chép có đúng sự thực không, hiện nay ta không thể có câu trả lời. Tất nhiên là không thể lấy việc thờ cúng vua Mai ở Hà Nội để thay thế các chi tiết xác thực lịch sử các trận đánh của nhà vua này vào thành Tống Bình cách đây 1300 năm, tuy nhiên, việc phát hiện ra và khẳng định các đền thờ và việc thờ cúng Mai Hắc Đế trên mảnh đất Thủ đô sẽ rất có ý nghĩa trong việc khẳng định lòng dân Thăng Long - Hà Nội với một vị vua có công lao hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Như vậy, tổng kết lại, theo các thư tịch, đã có tới 28 di tích thờ vua Mai và các nhân vật tương truyền có quan hệ thân thiết với vua Mai hoặc đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Hoan Châu (Nam Đàn, Nghệ An: 16, Lộc Hà, Hà Tĩnh: 2, Hà Nội: 4, Hải Phòng: 6). Nếu thực sự có một di tích thờ Mai Hắc Đế trên núi Khán (nay không còn) thì số di tích thờ vua Mai lên tới 29. Trong số các di tích được thống kê này, hiện nay có một số di tích đã mất đi (như chùa Nàng Hai), một số di tích được trùng tu (khu miếu mộ vua Mai, miếu mẹ vua Mai), một số di tích mới được tôn tạo là: đền thờ vua Mai tại Cồn Chèn, xã Nam Thái, huyện Nam Đàn (nơi tương truyền vua Mai được sinh ra), đền Mai Hắc Đế tại Hòa Mục, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội (mới được phối tự cùng với Thần Nông ở miếu Bàn Tỉnh). Tại các di tích này, việc thờ phụng vua Mai và các nhân vật liên quan đến ông đang ngày càng được đầu tư nhiều hơn về vật chất và quan tâm nhiều hơn tới các trình thức nghi lễ.
II. Các lớp văn hóa trong tín ngưỡng thờ vua Mai (khảo sát trường hợp cụm di tích Hòa Mục)
Có thể nhìn thấy rõ 4 lớp văn hóa trong tín ngưỡng thờ vua Mai: tín ngưỡng thờ người anh hùng có công đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ thần Nông và tín ngưỡng thờ Thủy thần. Trong bốn lớp văn hóa này, lớp bề nổi dễ thấy và cũng là lớp mang tính quan phương được hiển hiện ở các bảng treo ở đình/ đền, ở các thần phả, các hồ sơ di tích, ở niềm tự hào nơi cửa miệng của người dân chính là tín ngưỡng thờ người anh hùng dân tộc. Chúng ta có thể thấy rõ tín ngưỡng này trong niềm tin tưởng của người dân ở Mai Phụ (Lộc Hà), Nam Đàn, Hà Nội và Hải Phòng.
Tuy nhiên, khảo sát các di tích trong cụm Hòa Mục (Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội), có thể thấy thêm nhiều lớp trầm tích văn hóa khác. Lớp thứ nhất dễ thấy hơn là tín ngưỡng thờ Mẫu. Theo quan sát của chúng tôi, đền Dục Anh đã được bài trí hoàn toàn theo phong cách của một đền thờ Mẫu.
Ngay cổng vào đền là một gian tiền tế, góc bên phải sát gian thờ trong là một gian thờ được xây thờ ông Ngũ hổ, trên nóc gian thờ thờ cô Chín. Góc bên trái cũng xây một khám thờ thờ thần linh, trên nóc khám thờ là ban thờ Cậu bé bản đền. Phía trong là một gian thờ có 3 cung. Cung thứ nhất thờ Tứ phủ công đồng gồm tượng Ngọc Hoàng ở trong khám và hai bên là tượng ông Hoàng Bơ và ông Hoảng Bảy. Bên trái thờ Đức Ông và bên phải thờ đức Thánh Hiền. Phía tận cùng bên trái là ban thờ Đức chúa Sơn lâm và 12 cô Sơn Trang. Cung thứ hai thờ Đức chúa Bà và 2 cô hầu cận. Tượng bà đặt uy nghi trong khám, hai cô hầu cận ngồi hai bên. Cung thứ ba thờ Tam tòa Thánh Mẫu. Khám thờ được đặt trên cao gồm có 3 tượng: giữa là áo đỏ, bên trái áo xanh, bên phải áo trắng. Bên dưới gồm có 3 ban: chính giữa là 4 cô hầu cận, bên phải là ban thờ Chầu Mười đồng mỏ, bên trái là ban thờ Chầu Lục thủ đền. Có hai con rắn lớn màu trắng và màu xanh uốn lượn từ cung ngoài tới cung trong, chầu hai đầu vào cung thờ Tam Tòa.
Một nghi thức thờ cúng chính ở đền Dục Anh là hầu đồng. Bà Đang (thủ nhang đền Dục Anh) cho biết, hiện đền có 60 đồng thầy đăng ký mở phủ và làm lễ cho các con nhang đệ tử. Đền Dục Anh được cho là rất linh thiêng nên nhiều con nhang đệ tử đã đến mở phủ ở đây. Chúng tôi gặp hai vợ chồng chị Bùi Thị Cúc (45 tuổi, quê ở xóm Hưng Long, xã Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) đến lễ ở đền thì được chị cho biết: chồng chị được thanh đồng báo là có căn, nên phải soạn lễ tiễn căn. Chị nhờ bà đồng Liên hầu thánh vào đầu năm 2010 để tiễn căn của chồng chị tại ngôi đền Dục Anh. Khi bà đồng hỏi là làm ở phủ riêng của bà hay đền Dục Anh, chị nói là làm ở đền to thì hơn, vậy là có duyên với đền Dục Anh. Từ đó đến nay, hai vợ chồng hàng năm đến lễ tạ (Nhật ký điền dã, ngày 15/2/2013).
Điều đáng nói là, tín ngưỡng thờ Mẫu đang như là một xu hướng mạnh ở cụm di tích Hòa Mục, và thông qua đó, ta có thể thấy sự biến đổi của tục thờ ở cụm di tích này trong dòng thời gian. Theo Bản kê khai thần tích do Viện Viễn Đông Bác cổ tiến hành được cựu Lý trưởng Lai Viết Tiệp của làng Hòa Mục khai ngày 1/4/1938, thần hiệu hai vị thần ở đền là Liễu Hạnh công chúa và Thủy tinh công chúa; thành hoàng thờ ở đình là 3 vị: Uyển, Miện và Huy(10). Như vậy, nguyên ủy (hay nói đúng hơn, vào thời điểm năm 1938), đền Dục Anh là một ngôi đền thờ Mẫu mà ta biết, vị thần chủ của ngôi đền thờ Mẫu ở Bắc Bộ là Liễu Hạnh công chúa. Bà Phạm Thị Uyển là thành hoàng được thờ ở đình, và không rõ từ lúc nào, bà đã trở thành vị thần chủ của ngôi đền này, thay thế vị trí của Liễu Hạnh. Và điều thú vị là, sau khi hội nhập vào ngôi đền, từ một nhân thần có gốc gác lịch sử, bà Phạm Thị Uyển đã được thờ cúng và được dân gian kính cẩn gọi bằng tên gọi Đức Bà. Với cách bài trí ban thờ như đã nói ở trên, với nghi thức hầu đồng, bà Phạm Thị Uyển dường như đã hòa nhập hoàn toàn với điện thờ Tứ phủ mà vẫn mang theo gốc gác lịch sử của mình. Hiện tượng này chứng minh một nét tâm lí phổ biến của người dân khi kể truyền thuyết và thực hiện nghi lễ thờ cúng là: hầu hết các vị thần tự nhiên hay các vị thần vô danh khác đều được “khoác chiếc áo lịch sử” để truyền cho người nghe/người thực hành nghi lễ tin rằng, đó là nhân vật lịch sử có thật và sự kiện đó đã từng xảy ra trong lịch sử. Vì thế, bà Phạm Thị Uyển mà truyền thuyết kể là vợ vua (Mai Hắc Đế) và cháu vua (Bố Cái đại vương Phùng Hưng) đã đàng hoàng thay thế một vị thần Mẫu nổi tiếng.
Một hiện tượng khác thể hiện sức mạnh của tín ngưỡng thờ Mẫu là việc đền hóa ngôi đình Ngoài, hay cụ thể hơn là Mẫu hóa hoàn toàn việc thờ cúng ba nhân vật được cho là lịch sử. Thần phả cụm di tích được sao lục năm 1940, Bản kê khai năm 1938 đều kể rằng, đình Ngoài thờ 3 vị thành hoàng Phạm Thị Uyển, Phạm Miện và Phạm Huy(11). Tuy nhiên, khi điền dã tại ngôi đền, chúng tôi thực sự ngạc nhiên về tên gọi, cấu trúc di tích và cách thực hành nghi lễ tại đây. Tên gọi của ngôi đình Ngoài xưa kia bây giờ có tên gắn ngay ở cửa ngôi đền là: Đền Đức Thánh Bà Chúa Tiên. Từ ngoài vào, phía bên trái cửa đền là hai ban thờ: ban thờ phía ngoài có 2 tầng, tầng dưới thờ ông Hoàng Bảy Trần Quốc Toản (ở đây, người anh hùng đánh giặc Nguyên đã được gia nhập điện thờ Tứ phủ), tầng trên thờ Mẫu thiên tiên trời đất bốn phương; ban thờ phía trong thờ Nữ hoàng tiên cô. Phía bên trái cửa đền là ban thờ Tam vị tiên cô. Trong đền có 2 cung thờ. Cung phía ngoài có 3 ban thờ: bên trái thờ Đức Đại vương Trần triều; ban giữa thờ Tứ phủ công đồng; ban bên phải thờ Mẫu Chúa Liễu Hạnh và 12 cô Sơn Trang. Cung phía trong (hậu cung) thờ Mẫu, Đức Thánh Bà và hai cô hầu cận. Cụ Lai Thị Miên cho chúng tôi biết, năm 1980, sau khi cô con gái 17 tuổi bị chết đột ngột vào năm 1977, cụ bị “cơ đầy” nên đau ốm, điên rồ, sau đó Đức Thánh Bà Phạm Thị Uyển báo mộng cho cụ biết cần phải ra hầu thánh, cụ ra hầu thánh và bệnh khỏi dần dần. Cụ cho biết, Đức Thánh Bà hiển linh nói cho cụ biết phải sửa lại ngôi đình Ngoài và bà báo mộng cho biết cần phải có những ban thờ nào. Các ban thờ hiện nay đều do bà làm từ năm 1980. Cụ Miên nói rằng, Đức Thánh Bà quyết định cho đổi đình thành đền và thờ cúng như ngày nay (Nhật ký điền dã ngày 19/2/2013). Bản Hồ sơ xin công nhận của cụm di tích năm 1992 đã xác nhận sự thay đổi như sau: “Trải qua một thời gian dài tồn tại cùng những biến động cùng những biến động của thời gian, đình Ngoài hiện nay các hiện vật pha trộn giữa đình và đền” và nhận định: “Đó là sự tôn kính, ngưỡng mộ không những đối với người hiền tài của đất nước mà cả các thần linh tự nhiên và sự dân dã của tâm hồn người dân”. Điều này thể hiện sự biến đổi lớn của văn hóa thời kinh tế thị trường khi đình biến thành đền, tín ngưỡng thờ thành hoàng biến thành tín ngưỡng thờ Mẫu, dù rằng, nhân vật được thờ vẫn chỉ là một người.
Lớp văn hóa thứ ba ở cụm di tích Hòa Mục là tín ngưỡng thờ thủy thần. Như đã nói ở trên, “motif xác chết trôi dạt trên sông” là một motif đặc trưng của việc thờ cúng thủy thần. Lịch sử đã biết đến sự thể hiện phong phú của motif này trong truyện kể về nàng Bích Châu (đền bà Hải, Kỳ Anh, Hà Tĩnh), bà vợ vua Lê Lợi (Lam Sơn thực lục), bốn vị Thánh Nương (đền Cờn, Nghệ An; đền Lộ, Hà Nội và rất nhiều đền thờ ven biển Bắc bộ, Trung bộ). Truyền thuyết cũng kể rằng, bà Phạm Thị Uyển là người “thạo thủy binh”, bà chỉ huy trận giao chiến trên sông Tô Lịch và khi thất bại, bà đã gieo mình xuống sông tự tận. Đó là những chi tiết hô ứng để truy tìm gốc gác nhân thần của ngôi đền Dục Anh. Một chi tiết khiến tôi củng cố thêm nhận định này là ngôi miếu ngay cổng phụ đền Dục Anh. Miếu này có tên là “Miếu Đôi Cô”. Bà Đang (thủ nhang đền) cho biết, ngôi miếu đó thờ Hai cô Cửa Sông, có từ thời Hai Bà Trưng, linh lắm. Bà cho biết, ngôi miếu này có trước, sau đó mới xây đền thờ bà Phạm Thị Uyển (Nhật ký điền dã ngày 14/2/2013). Ngôi miếu này khiến chúng tôi liên tưởng tới thần hiệu “Thủy tinh công chúa” của đền trong Bản khai thần tích làng Hòa Mục của viên cựu Lý trưởng năm 1938. Có một mối liên hệ giữa tục thờ thần sông, sau được thần tích hóa bằng vị “Thủy tinh công chúa”, rồi hòa nhập vào tục thờ Mẫu với việc thờ cúng Liễu Hạnh và rồi lịch sử hóa bằng việc tôn vinh bà Phạm Thị Uyển thành thần chủ ngôi đền này.
Lớp văn hóa thứ tư ở cụm di tích Hòa Mục là tín ngưỡng nông nghiệp. Đây có thể coi là lớp trầm tích văn hóa cổ nhất. Thần Nông được thờ trong miếu Bàn Tỉnh (miếu có tên gọi này có lẽ bởi trước ngôi miếu là một ngôi giếng đất). Miếu này vốn là một nơi thờ không được xây dựng, chỉ là 3 bậc tam cấp bằng đất dưới một gốc cây muỗm lớn và cạnh ngôi giếng. Có miếu thờ này là vì làng Hòa Mục xưa là một làng nông nghiệp, đồng ruộng rất rộng. Ngôi đình Ngoài có tên gọi như vậy vì trước đây ở giữa đồng, còn đình Trong ở giữa làng. Vậy mà ngôi đình Ngoài xưa kia hiện nay đã tọa lạc tại một con phố sầm uất, nép mình bên cạnh một ngôi nhà cao hơn 20 tầng của một đơn vị bộ đội vẫn đang tiếp tục xây và lấn luôn cả phần đất có cây đề vài trăm tuổi của ngôi đình.
Cụ Miên là người khởi công việc dựng miếu Bàn Tỉnh, ban đầu lợp tôn, và sau đó xây khang trang như ngày nay(12). Cụ cho biết, khi cụ bị “cơ đầy”, khoảng vào năm 1981-1982, cụ nằm mộng thấy một người to cao, da đen hiện lên nói: ta là Mai Hắc Đế, phải xây đền cho ta ở, và chỉ cho cụ xây đền ở chỗ miếu Bàn Tỉnh. Cụ cho biết thêm, trước đây, ngôi miếu có hai ngày cúng là 7/1 âm lịch (ngày hạ cây nêu, làm lễ xuống đồng) và ngày 2/6 âm lịch (là ngày gặt). Nhưng nay làng hết đồng rồi, vì thế Đức vua Mai chỉ cho cúng ngày 7/1, còn ngày 2/6 thì thôi. (Nhật ký điền dã ngày 19/2/2013). Đúng ngày 7/1 Quý Tỵ vừa rồi, tôi có đến miếu và dự lễ hạ cây nêu, cúng thần Nông và được các cụ mời thụ lộc ở đền. Người dân Hòa Mục rất tự hào về nghi thức cổ xưa của làng mình và cho biết sẽ giữ mãi các cổ tục này cho con cháu. Được biết, vào ngày tất niên và ngày tân niên, đình, đền của làng đông nghịt, già trẻ, trai gái của làng ra lễ thánh, cầu cho một năm mới bình an, may mắn.
Khảo sát các lớp văn hóa trong tín ngưỡng thờ cúng vua Mai và các nhân vật liên quan đến ông tại cụm di tích Hòa Mục (Hà Nội), chúng ta có thể thấy được dòng chảy văn hóa qua thời gian: những gì còn giữ nguyên, những gì đã biến đổi để ứng hợp với niềm tin tưởng của người dân trong từng giai đoạn lịch sử đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của văn hóa truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
***
Kết thúc truyện kể về vua Mai trong Hương Lãm Mai Đế ký, Chư Cát Thị viết mấy lời đau xót: “Nhà vua bị hãm trận mà chết. Quốc thống lại đứt”. Hơn nửa thế kỷ sau khi Mai Thúc Loan thất bại, quốc thống được nối lại bởi cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng và nhờ những cuộc khởi nghĩa như những cuộc chạy tiếp sức đó, màn đêm Bắc thuộc đã vĩnh viễn bị đẩy lùi. Bằng việc thể hiện sự tôn vinh đối với vua Mai, ta có thể thấy truyền thuyết và việc thờ cúng ông quả đã giữ lửa ấm và nuôi các tia hào quang lịch sử để soi rọi đến đời sau. Chúng có giá trị rất lớn trong việc nối liền và nối dài quốc thống trong lòng dân, trong việc xây dựng và sáng tạo truyền thống, trong việc làm mới và làm sống động truyền thống trong lòng xã hội đương đại. Trong Hội thảo 2008, các tham luận đề nghị nâng lễ hội vua Mai lên thành lễ hội cấp tỉnh, tôn tạo di tích nơi vua Mai ra đời dưới hai gốc mai ở Cồn Chèn nay đã được toại nguyện; việc đề nghị thành phố Hải Phòng lấy tên hai người con vua Mai đặt tên cho hai đường phố ở Hải Phòng đang được xem xét. Điều này cho thấy sự tôn vinh của hậu thế đối với vua Mai.
1300 năm trôi qua, biết bao lớp bụi thời gian phủ mờ nhưng hình ảnh của vị vua xưng Đế này không bị rơi vào quên lãng mà càng ngày càng lộ rõ, truyền thuyết tiếp tục sinh sôi, các di tích tiếp tục được khôi phục và xuất hiện, những địa danh mới mang tên ông đang được đề xuất, điều đó cho thấy người dân không chỉ tưởng nhớ về ông mà còn mong muốn ông được hiện diện cùng dân tộc trong những thời khắc đương đại. Đó cũng có thể được coi là một duyên may của lịch sử, sau những đứt gãy, quốc thống vẫn được nối liền và hiện hữu như một thang giá trị trong cuộc sống hôm nay. 
Chú thích:
1. Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Sở VHTT Nghệ An, Vinh, tr. 302-349.
2. Phạm Xuân Quang (2008), Kỷ yếu Hội thảo “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu”
3. Nguyễn Quang Hồng (2008), Kỷ yếu Hội thảo “Mai Thúc Loan và khởi nghĩa Hoan Châu”.
4. Nhiều tác giả, Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2013
5. Nguyễn Văn Dũng (2008), Kỷ yếu Hội thảo “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu”
6. Thư mục thần tích, thần sắc, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, Viện Thông tin KHXH, Hà Nội, 1996, tr. 825
7. Hyppolyte Le Breton, An Tĩnh cổ lục, xuất bản năm 2005, Nxb. Nghệ An và một số tác giả khác
8. Vũ Tuân Sán (1968), Núi Nùng, núi Khán hay núi Sưa? Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 111.
9. Dẫn theo Ngô Đức Thọ (chủ biên, 2007), Từ điển di tích văn hóa Việt Nam - tổng hợp tư liệu thư tịch Hán Nôm, Nxb. Từ điển Bách khoa, H., tr. 386
10. Thần tích - Thần sắc làng Hòa Mục, xã Dịch Vọng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, Ký hiện TT-TS FQ4*18/11.16
11. Vì thế, tôi rất ngạc nhiên khi đọc bài của ông Lai Đức Thụ, giảng viên khoa Lịch sử, trường ĐHSP Hà Nội, là người con của làng và hiện vẫn sống ở làng, viết rằng, ngôi đình Ngoài thờ Phùng Hưng (Hội thảo Mai Thúc Loan, 2008).
12. Đền thờ Mai Hắc Đế (được phối tự cùng thần Nông ở miếu Bàn Tỉnh của làng từ năm 1990) do cụ bà Lai Thị Miên (năm nay 88 tuổi, hiện đang là thủ nhang đền Đức Bà, vốn là đình Ngoài) và một người cháu là bà Lại Thị Nghĩa Viên công đức, không phải do “Hội đồng hương Nam Đàn tại Hà Nội công đức tu sửa” như bài của ông Lại Đức Thụ viết ở Hội thảo Mai Thúc Loan năm 2008. Điều này theo chúng tôi có ý nghĩa hơn nhiều vì tín ngưỡng thờ vua Mai đã bén rễ tại mảnh đất Hòa Mục và đang được cộng đồng dân chúng của làng Hòa Mục thờ cùng với vị thần được thờ từ lâu đời của mình.
Tài liệu tham khảo:
1. Thư mục thần tích, thần sắc, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia - Viện Thông tin KHXH, H., 1996: Bảng kê khai của lí trưởng về tục thờ ở đền Dục Anh trong cuộc khảo sát của Viện Viễn Đông Bác cổ được thực hiện năm 1937; Bản Hương ước của làng Hòa Mục bằng chữ Hán được lưu trong Thư viện KHXH; Thần tích đền Mai Hắc Đế ở làng Nghi Lễ, tổng Xuân Khoa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An bằng chữ Pháp được lưu trong Thư viện KHXH do Hội Văn hóa dân gian Đông Dương khai;
2. Thần phả đền Dục Anh do các cụ làng Hòa Mục sao chép năm Bảo Đại thứ 8
3. Hồ sơ di tích cụm di tích Hòa Mục, 1992
4. Đinh Văn Hiến và Đinh Lê Yên (1989, 2003, 2005, 2009), Mai Hắc Đế, truyền thuyết và lịch sử, Nhà xuất bản Nghệ An.
5. Lê Quý Đôn toàn tập, tập 3, Nxb KHXH, H, 1987
6. Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An, Vinh
7. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Từ điển di tích văn hóa Việt Nam - tổng hợp tư liệu thư tịch Hán Nôm, Nxb. Văn học, H., 2003; Nxb. Từ điển Bách khoa, H., 2007
8. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb KHXH, H.
9. Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam, Nxb KHXH, H, 1995
10. Trần Bá Chí (1964), Một số tài liệu liên quan đến Mai Thúc Loan và cuộc khởi nghĩa của ông, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, H., số
11. Vũ Tuân Sán, Hà Nội xưa và nay, Nxb Hội Nhà văn, H., 2007
12. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Trần Nghĩa chủ biên, Nxb. Thế giới, H.
13. Nhiều tác giả (2009), Kỷ yếu Hội thảo Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu, Nxb KHXH., H.
14. Nhiều tác giả (2013), Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.
PGS.TS Trần Thị An
CHUYÊN SAN KHXH&NV NGHỆ AN, SỐ 3/2013