Cội nguồn họ Phạm

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Tư liệu Hán Nôm tại nhà thờ Phạm Công Trứ ở Liêu Xuyên

TƯ LIỆU HÁN NÔM TẠI NHÀ THỜ PHẠM CÔNG TRỨ Ở LIÊU XUYÊN
Đinh Văn Minh
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Địa danh: “Liêu Xuyên” đã đi vào lịch sử và mãi mãi gắn liền với những tên tuổi mà sử sách đã giành những trang xứng đáng để ghi nhận, ngợi ca. Trong những tên tuổi ấy, nổi bật hơn cả là nhà sử học, nhà chính trị, nhà thơ thế kỷ XVII: Phạm Công Trứ.
Về Phạm Công Trứ, sách Lịch triều hiến chương loại chí, ở phần “Nhân vật chí”, Phan Huy Chú viết: “…Ông là người thâm trầm, giản dị, chắc chắn. Ra đương việc nước 19 năm, đặt ra phép tắc, sửa soạn kỷ cương, đè nén những kẻ cậy thế nhũng lạm, yêu chuộng những người có phong cách tiết tháo, được đời khen là Tể tướng có tiếng tốt. Ông lại ham đọc sách, chăm học đến già vẫn không mỏi. Có đức tốt, có danh vọng, có công lao sự nghiệp, là bậc hiền tể thứ nhất sau đời Trung hưng…”(1). Tìm hiểu danh nhân lịch sử này, có thể dựa vào các nguồn tư liệu khác nhau. Nhưng thật là thiếu sót, nếu không đọc những “trang sử bằng đá” ở Liêu Xuyên được nhân dân và dòng họ Phạm gìn giữ hơn ba thế kỷ qua.
Liêu Xuyên xưa, nay thuộc xã Nghĩa Hiệp, huyện Mĩ Văn tĩnh Hưng Yên. Ở thôn Thanh Xá có nhà thờ Phạm Công Trứ(2). Đây vốn là từ đường họ Phạm do Phạm Công Trú hưng công dựng năm Cảnh Trị thứ 7 (1669), sau khi thân phụ mới qua đời. Nhà thờ hiện nay chỉ là một gian nhà gạch mái ngói thấp hẹp, đơn sơ. Cụ Phạm Bội Lê năm nay 79 tuổi là hậu duệ đời thứ 9 của Phạm Công Trứ cho biết: Tương truyền Phạm Công Trứ tính giản dị, chất phác, xây dựng từ đường chỉ dùng các vật liệu cũ đã dùng rồi và qui mô nhà thờ hiện vẫn giữ nguyên qui mô từ đường họ Phạm ngày trước. Trong nhà thờ, treo một hoành phi và một đôi câu đối. Hoành phi có 4 chữ lớn “Trung hưng hiền tướng” (nghĩa là: Tể tướng giỏi thời Trung hưng). Bốn chữ này là chữ của Vua Lê phong tặng khi Phạm Công Trứ đã qua đời. Chữ trên câu đối vốn là chữ ở lá cờ chúa Trịnh Tạc tặng lúc ông được về hưu vào năm Mậu Thân (1668). Câu đối như sau:
- Điều đỉnh nại, nhiếp âm dương, triều đình trụ hoạch.
- Hoàn qui mô, định hiệu lệnh, quốc gia đống lương.
Nghĩa là:
- Nêm canh đỉnh vạc, điều hòa khí âm dương, làm cột đá cho triều đình.
- Hoàn thành qui mô, định ra hiệu lệnh, là rường cột của Nhà nước(3).
Trong khuôn viên của nhà thơ còn 10 tấm bia đá. Đáng chú ý là các bia sau đây:
1. Phạm tướng công gia phả chi bi
Mặt sau: Tiên Nhân thọ niên húy nhật.
Người dựng: Phạm Công Trứ.
Năm dựng: Vĩnh Thọ nguyên niên (1658).
Người soạn văn bia: Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Hộ bộ Tả thị lang, Lai Xuyên hầu, trí sĩ, Kinh Từ Đông Thiết Đồng Chính Phái.
2. Huệ điền chi bi
Mặt sau: Văn hội tính danh.
Năm dựng: Cảnh Trị thứ 6 (1668).
Người soạn văn bia: Tân Mùi khoa đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Công bộ thượng thư, Thiếu bảo, Cẩm quận công, trí sĩ, Hải Nam Chí Lạc Phác Phủ Nguyễn Thọ Quyến.
3. Thái Bảo công từ đường chi bi
Từ đường điền thổ.
Người dựng: Phạm Công Trứ.
Năm dựng: Cảnh Trị thứ 7 (1669).
Người soạn văn bia: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh khoa Tân Mùi, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Công bộ thượng thư Thiếu bảo, Cẩm quận công, trí sĩ, Hải Nam Chí Lạc, Phác Phủ Nguyễn Thọ Quyến.
4. Đại Thừa tướng sự nghiệp bị
Mặt sau: Tiên nhân sinh niên húy nhật.
Người dựng: Các con…
Năm dựng: Vĩnh Trị thứ 4 (1679).
Người soạn văn bia: Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, Đông các đệ nhị danh khoa Kỷ Hợi, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Tham tụng Công bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, Duệ quận công trụ quốc thượng trật Hồ Sĩ Dương.
Các tấm bia kể trên là những văn bản bằng đá, là nguồn tư liệu có độ tin cậy cao. Nhờ nguồn tư liệu này, chúng ta cso thể đính chính những lầm lẫn thiếu sót có tính chất sử liệu ở sử sách và công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan. Ví dụ: Sách Đại Việt sử ký toàn thư(4) vàLịch triều hiến chương loại chí(5) đều chép “Sau khi Phạm Công Trứ chết, được tặng Thái tể, cho tên thụy là “Trung Cần”. Bia “Đại thừa tướng sự nghiệp bi” lại ghi tên thụy là “Kinh tế”. Vấn đề này, ở sách “Thừa tướng Phạm công niên phả”(6) có lời bàn như sau: “Thụy là “Trung Cần” e nhầm. Tra tờ sắc phong tặng thì tên thụy là “Kinh tế” (Kinh bang tế thế - Đ.V.M chú thích). Bởi lẽ hai chữ “Kinh Tế” mới xứng với thực chất, còn “Trung Cần” chỉ mới nói được mặt tiết hạnh mà thôi”(7).
Các sách khảo cứu như: “Lược truyện các tác gai Hán Nôm, Danh nhân lịch sử Việt Nam”, Thư mục Hán Nôm - mục lục tác giả đều nhầm năm sinh của Phạm Công Trứ là năm 1599. Bia số 4 cho biết Phạm Công Trứ sinh năm Canh Tý. Năm Canh Tý là năm 1600 tính ra dương lịch, còn năm 1599 là năm Kỷ Hợi tính ra âm lịch. Bia còn cho biết tháng, ngày, giờ sinh và mất(8).
Hoặc trong bài viết với đầu đề “Đại Việt sử ký tục biên sơ thám” của tác giả Quách Chấn Đạc đăng trên tạp chí “Đông Nam Á” số 4năm 1989 xuất bản ở Vân Nam Trung Quốc, viết rằng: “Phạm Công Trứ xuất thân trong một gia đình phong kiến thưu hương khá giả, đời ông cha đều làm quan”. Đây là sự lầm lẫn không đáng có. Phạm Công Trứ sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, ít chữ. Đời o­ng đời cha phải chăn vịt, cày ruộng. Chính Phạm Công Trứ thiếu thời vì nhà nghèo, toan đi phương khác kiếm ăn, nhưng nằm mộng thấy thần mách bảo phải chịu khó học hành, muộn mới thành danh. Chỉ đến khi Phạm Công Trứ đỗ đạt, làm quan, ông bà cha mẹ mới được ấm phong tước lộc. Ông Công Cai có công nuôi dạy con được ấm phong, đặc cách bổ chức Lệnh doãn huyện Hoài An (bia gia phả).
Những điều vừa nêu là một phần giá trị của những tấm bia đá tại nhà thờ Phạm Công Trứ ở Liêu Xuyên.
Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu danh nhân lịch sử Phạm Công Trứ và những vấn đề liên quan, chúng tôi dịch bia số 4 để bạn đọc tham khảo.
Bia ghi sự nghiệp Đại thừa tướng
Đại thừa tướng họ Phạm, húy Công Trứ, sinh năm Canh Tý (1600), người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào, vốn giàu lòng trung hiếu, chăm chỉ học hành.
Năm 22 tuổi đỗ khoa thi Hương.
Năm 26 tuổi đỗ khoa thi sĩ vọng, được sung chức Huấn đạo.
Năm 29 tuổi đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Thìn (1628), sau đó vào diện rồng ứng chế được đỗ, được nhậm chức ở viện Hàn lâm, rồi làm quan trải các chức Hiến sứ, Phủ doãn, Tham chính, Tự khanh.
Năm Ất Dậu (1645), vì có công dẹp yên nội loạn, được thăng Phó đô ngự sử, tước Bá, sau thăng chức Đô ngự sủa. Do bàn nghị thẳng thắn được chúa tin yêu.
Năm Đinh Dậu (1657), thăng chức Lễ bộ thượng thư, tước Yến quận công, rồi phụng mệnh ra trông coi Quốc tử giám, sửa sang nơi thờ tự, khơi dậy nề nếp văn chương học hành.
Năm Tân Sửu (1661), thăng chức Đông các Đại học sĩ Thiếu bảo.
Năm Giáp Thìn (1665), thăng Lại bộ Thượng thư.
Năm Mậu Thân (1668), trí sĩ với chức Tham tụng Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Quốc lão tham dự triều chính, Thái bảo Yến quận công. Lúc về hưu, được vua chúa ban cho 12 đôi câu đối thêu vào cờ và được nhân dân trong huyện đón rước long trọng.
Năm Quí Sửu (1673), vua mời vào triều giữ việc sáu bộ.
Năm Ất Mão (1675) ngày 28 tháng 10 qui tiên, hưởng thọ 76 tuổi, truy tặng Thái tể, cho tên thụy “Kinh Tế” phủ quân. Vua ban tiền tuất, sai quan lo việc tang lễ. Vua còn cho dân bản quán làm dân tạo lệ lo việc thờ cúng về sau.
Sự nghiệp của Thừa tướng làm rạng rỡ tổ tiên, phấn chân con cháu; công danh của Thừa tướng mở đầu tốt đẹp, kết thúc vẻ vang. So với các bậc đại thần xưa, làm theo công tâm, đi đường chính đạo, xả thân vì nghĩa, sống được danh thơm, chết còn tiếng tốt, thì Thừa tướng có thua kém gì!
Tuy nhiên, công danh sự nghiệp của Đại thừa tướng vững chắc như vậy, xếp đặt nghĩ suy của Đại thừa tướng sáng suốt ra sao, để khi là kẻ sĩ được trong sạch ngồi trong nhà ngọc, giúp vua trị nước ban hành chế độ, ung dung trên gác vàng biện bác bàn bạc công việc xứng đang là bậc nguyên lão đường triều; để lúc được về hưu, trung ái sắt son, lời thề xưa vẫn giữ vững, triều điìn quyến luyến, quyền chức cũ lại giữ nguyên. Rõ ràng là lão tướng thảnh thơi của đời thịnh trị.
Đến ngày khởi phục vào triều, quản lý trăm quan, trông coi lục bộ, trung hiếu gánh vác hai vai, thủy chung hẳn ngoài bốn kỷ; trung nghĩa rạng triều đình, huân danh lừng thiên hạ. Ngày tắt thở qui tiên còn được đổi tiên thụy, tang tế linh đình, hưởng đặc chỉ ấy là khác người vậy; lại được ban tiền tuất, cho dân tạo lệ, đặc ân ấy cũng là hiếm có.
Ôi, vẻ vang biết bao, Đại thừa tướng công đã thành, danh đã toại. Thời trai trẻ tấm thân hiển vinh, khi về già người đời quý trọng. Sự nghiệp ấy còn ngân vang đến ngàn đời không dứt.
Bởi vậy, con cháu tuởng nhớ, nay lập bi ký.
Kèm theo bài minh, như sau:
Đường Hào, xã Cổ Liêu.
Đất có hậu, người nhiều
Từ đó sinh tuấn kiệt
Như sao Đẩu sao Điêu
Từng đỗ cao hàm Tướng
Ngôi cả bậc thần liêu
Như đời Thuương, Phó Duyệt(9)
Phò chủ súy Đường Nghiêu
Xiêm vàng tay xách túi
Lục Dã(10) gió tung diều
Khởi phục coi sáu bộ
Giúp vua trải năm triều
Qui mô đà tươm tất
Tiên cảnh mới tiêu diêu
“Thái tể”, được vinh tặng
Người đời cắm mốc nêu
Nay dân cùng thờ cúng
Ước hẹn có mấy điều
Bốn mùa và tám tiết
Kèn trống rộn sáo tiêu
Lẫy lừng bấy sự nghiệp
Không dứt tiếng ca diêu
Bia này nay kính dựng
Vạn thuở ngắm đăm chiêu
Ghi toàn thể ngày sinh ngày mất của tiên nhân.
- Hiển khảo Thái tể công, sinh giờ Mậu Thìn ngày Canh Thân, mười bảy tháng 3 năm Canh Tý; mất ngày 28 tháng 10 năm Ất Mão, hưởng thọ 76 tuổi, an táng tại…
- Hiển tỷ được ấm phong là Phu nhân Lưu quí thị, hiệu Từ Nhân sinh năm Giáp Thìn mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp dần, hưởng thọ 71 tuổi. Mộ hợp táng tại…
- Hiển tỷ được phong tặng Á phu nhân Cao quí thị, hiệu Huy Trang, sinh giờ Thìn ngày 21 tháng 9 năm Nhâm Tý, mất ngày 11 tháng 9 năm Nhâm Thìn, hưởng thọ 41 tuổi, an táng tại thôn Chi Long, xã Hoàng Đôi, huyện Ninh Giang.
Ngày lành tiết xuân năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Hựu Hoàng triều (1738).
Các con [đứng ra dựng bia]
- Tham chính xứ Sơn Tây, Diễn Lan nam Phạm Công Kiêm.
- Tham nghị xứ Sơn Nam, Trung Thuần tử Phạm Công Thiện.
- Tham nghị sứ Kinh Bắc, Phạm Công Phương.
- Binh hộ Viên ngoại lang, Phạm Công Dự.
- Hoằng Tín đại phu Nho sinh, Phạm Công Vĩ.
Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, đỗ thứ nhì khoa Đông các năm Kỷ Hợi, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng Công bộ Thương thư, kiêm Đông các đại học sĩ Duệ quận công trụ quốc thượng trật, quê ở Hoàn Hậu Quỳnh Lưu, Hồ Sĩ Dương vâng mệnh kính cẩn soạn văn bia.
Thi đỗ khoa Thư toán năm Tân Sửu, Đề lại nha môn thừa ty Kinh Bắc, quê ở Nhụy Khê huyện Thượng Phúc, Nguyễn Vinh vâng mệnh viết chữ.
Thi đỗ khoa Thư toán năm Ất Mão, Đề lại nha môn thừa ty xứ Kinh Bắc quê ở Phù ủng huyện Đường Hào, Lê Trinh Tường vâng mệnh viết chữ.

Chú thích:
1. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí tập I, trang 276, Nxb. Khoa học xã hội, 1992.
2. Nhà thờ đã được xếp hạng Di tích lịch sử và văn hóa.
3. Lịch triều hiến chương loại chí Sđd tập I, tr.276.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, tr.336, Nxb. Khoa học xã hội, 1972.
5. Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tập I, tr276.
6. Sách do Cháu ngoại của Phạm Công Trứ là Lê Hữu Mưu biên soạn năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), ký hiệu A.1368 kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Lê Hữu Mưu người xã Liêu Xá huyện Đường Hào, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Công bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên, là con của Tiến sĩ Lê Hữu Danh, cha của Tiến sĩ Lê Trọng Tín.
Bản sách có ký hiệu nói trên là bản sao chép tay, do cháu năm đời chí thứ bảy làm quan Thiên hộ ở huyện Thọ Xương là Phạm Đình Hòa thực hiện năm Gia Long thứ 14 (1815) từ bản thứ bút Kinh diên triều Lê.
7. Sách chữ Hán Toàn Việt thi lục ký hiệu A132/4, kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, quyển 23, tr.1a. Lê Quí Đôn chép là “cho tên thụy là Kinh Tế”.
8. Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, tr.536, ghi Phạm Công Trứ sinh năm 1602.
9. Phó Duyệt là hiền tướng đời Ân Thương, đã phò tá Ân Cao Tông rất đắc lực.
10. Lục Dã tức Lục Dã đường, tên gọi biệt thự của Bùi Độ đời Đường. Vào năm Khai Nguyên, ba anh em nhạc công Lý Qui Niên được ân sủng cho dựng nhà cửa ở làng Thông Viễn ngoại thành Đông Đô. Nhà dựng xong qui mô to lớn hơn cả trong thành. Sau Bùi Độ chuyển đến đó ở , gọi là Lục Dã đường. Trong bài minh này, Lục Dã (đường) ý nói về ở nhà nơi thôn dã, về hưu.
Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.219-228)
Đinh Văn Minh
Nguồn tin: Viện Hán Nôm

Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả một cuốn phả quí

ĐƯỜNG AN ĐAN LOAN PHẠM GIA THẾ PHẢ MỘT CUỐN PHẢ QUÍ
Trần Kim Anh
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (ĐAĐL) là gia phả của họ Phạm ở làng Đan Loan huyện Đường An phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương (nay là làng Đan Loan xã Nhân Quyền huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Dương). Cuốn phả này do Phạm Đình Hổ biên soạn dựa trên cơ sở cuốn Phạm tộc thế gia phả hệ kí của thân phụ ông là quan Thái bộc tự khanh Phạm Đình Giáp còn gọi là Diệc Hiên tiên sinh để lại.
ĐAĐL từ lâu nay đã được một số nhà nghiên cứu để ý đến. Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm đã giới thiệu về nó và cho rằng đây là một cuốn phả “có nhiều tài liệu lịch sử, nhất là về diên cách một số địa phương, điều mục một số điển lệ, thể lệ, tục lệ dưới triều Lê”(1).
Dã Lan Nguyễn Đức Dụ trong Gia phả, khảo luận và thực hành cũng liệt ĐAĐL vào một trong những cuốn phả có “tầm vóc giá trị rất lớn”(2) và “trong phả có nhiều sử liệu quí giá”(3).
Song đẻ nghiên cứu kĩ càng và tiến hành khai thác tư liệu, công bố các tư liệu trong phả thì hầu như chưa có ai thực sự quan tâm.
Trong quá trình nghiên cứu tác gia Hán Nôm Phạm Đình Hổ, tôi đã phải đọc đi đọc lại nhiều lần cuốn phả này và thực sự cảm nhận được phần nào những đánh giá nói trên về nó, do đó trong bài viết nhỏ này, tôi xin được giới thiệu đôi điều về cuốn phả cùng giá trị của những tư liệu được tàng trữ trong nó.
1. Tình hình văn bản
Hiện nay tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ hai văn bản sách này. Một bản mang kí hiệu A909 và bản kia là VHv.1353.
Bản A909 khổ 30x19 dày 300 trang, chữ viết tay chân phương nhưng có nhiều nhầm lẫn do sao chép. Mục lục đặt ngay sau bìa trước cho biết sách gồm có các phần:
1. Trục nguyệt kị thời
2. Phụng tiên cáo từ
3. Tông đồ
4. Chính biên
5. Cựu phả, hành trạng, vi mặc
6. Nội truyện
7. Niên canh
8. Đẩu số y phương khắc trạch
Bản VHv1353 được viết y hệt sách trên nhưng phía sau có phụ thêm bài kí Hành tại diện đốicủa Phạm Đình Hổ(4). Bản này cũng có rất nhiều sai sót do sao chép.
2. Nội dung
Xem kỹ toàn bộ cuốn phả có thể thấy phần quan trọng và có giá trị hơn cả là phần Chính biên và Hành trạng, chiếm gần 200 trang trong cuốn phả. Phần Chính biên do Phạm Đình Hổ biên soạn và phần Hành trạng do học trò của Diệc Hiên tiên sinh là Phan Trọng Phiên và Phan Huy Dung(5) soạn.
Phần Hành trạng là phần viết về niên phả hành trạng của Diệc Hiên tiên sinh tức thân phụ của Phạm Đình Hổ cùng toàn bộ quyển thi đạt trúng hạng đệ nhất danh của tiên sinh trong kỳ thi Hương trường bốn năm Quí Hợi niên hiệu Cảnh Hưng (1743).
Phần chính biên là phần ghi chép thế thứ 10 đời của họ Phạm kể từ ông tổ đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp ở Đan Loan đến đời thứ 10 là đời thân phụ của Phạm Đình Hổ. Thực ra ở phần này, thế thứ chi tiết chỉ bắt đầu được ghi rõ từ đời thứ tư, và đời thứ mười là đời được ghi chép tỉ mỉ đầy đủ nhất. Ở đây chúng tôi chủ yếu đi vào nghiên cứu phần chính biên.
3. Giá trị phần chính biên
a. Về văn học
Ở cuốn gia phả này, người ta không bị chán ngắt bởi toàn những ông nọ đẻ ra bà kia cùng ngày sinh ngày giỗ của họ mà thực sự được thưởng thức một áng văn hấp dẫn, với lối viết sáng sủa, bố cục rành mạch cùng nhiều chi tiết sinh động về các hoạt động xã hội đương thời, nhiều giai thoại về những cá nhân trong dòng họ và có quan hệ đến dòng họ, khiến người đọc hình dung được hết sức rõ ràng sự vận động để hình thành và phát triển của một dòng họ trong sự vận động chung của toàn xã hội. Tất cả những điều đó đã giúp người đọc những hiểu biết sâu xa về con người, về gia đình, dòng tộc và xã hội thời Hậu Lê. Có thể thấy, đây là một lối viết phả hết sức tiêu biểu.
Ở đây Phạm Đình Hổ vẫn trung thành với lối viết sở trường của mình, lối viết khảo cứu. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội để đưa vào đó rất nhiều kiến thức về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... Chính điều đó đã khiến cho nội dung cuốn phả trở nên hết sức sâu sắc.
b. Về tư liệu lịch sử
Ngoài những tư liệu có thể giúp ích hữu hiệu cho việc nghiên cứu về diên cách của một số địa phương, đặc biệt là xã Đan Loan và một số xã quanh đó, về tổ chức làng xã, về ruộng, đất, hương ẩm, khoán lệ, phong tục v.v..., thì ở ĐAĐL còn có một loại tư liệu rất quý nữa, đó là tư liệu về tổ chức giáo dục và thi cử dưới thời Hậu Lê, đặc biệt là chế đọ thi hương.
Bởi đây là một dòng họ thi thư, hầu như tất cả đàn ông trong dòng họ đều đi học và đi thi, do đó hầu như ở đời nào cũng có chuyện về học hành thi cử cùng nhiều giai thoại lí thú về các nhân vật đỗ đạt. Xin được trích ra đây một vài mẩu chuyện:
“Năm Quí Hợi niên hiệu Chính Hòa, Tiến sĩ Hoa Công Phương(6) nguyên tịch ở xã ta cùng Thám Hoa Vũ Thạnh(7) đều cư ngụ ở phường Báo Thiên huyện Thọ Xương, đậu trường 4 khoa thi Hương. Vũ công lĩnh giải nguyên. Khi 2 ông trở về quê bị các hào lí trong làng bắt đội đất đắp đường, không chịu được lao dịch vất vả, cả hai bỏ trốn. Đến khi Vũ công đỗ đạt vinh qui, hào lí trong làng dẫn 300 tráng đinh cầm gậy gộc đợi ở ngã tư đầu làng Đình Tổ ngăn không cho về vì bổ thiếu lệ làng khi trước. Ông phải đem 300 quan tiền quí nộp tạ, làng mới cho về. Hoa công sau khi bỏ lao dịch đổi đến nhập tịch ở xã An Dân, đậu trước Thám hoa Vũ công một khoa, đậu xong không về làng, cho nên không có trong hàng Tiên triết ở làng ta.
Các qui chế thể lệ về thi Hương sau, thời Lê Trung hưng cũng được Phạm Đình Hổ đưa vào rất chi tiết: “... Đến khi trúng cách trường ba, những người nhờ ấm Triều liệt, Hoằng tín, Hiển cung, Mậu lâm và các tên quan viên tử từ lục phẩm trở lên, theo lệ sung Nho sinh Chiêu Văn quán. Quan viên từ hàng thất phẩm và các tên nhiêu nam miễn phu dịch, theo lệ sung Nho sinh Tú Lâm cục. Trúng cách bốn trường, nếu do sinh đồ dự trúng, theo lệ sung Giám sinh Quốc Tử Giám, do nho sinh dự trúng, theo lệ sung nho sinh trúng thức, đều gọi là Hương cống. Trường ba lấy bao nhiêu suất, trường bốn lấy bao nhiêu suất, bảy trường Thanh, Nghệ, Đông, Tây, Nam, Bắc và Phụng Thiên đều có chuẩn định số suất gọi là suất thi. Kẻ sĩ trường ốc ứng cử rất khó.
c. Tư liệu xã hội học
Qua sự phát triển của dòng họ Phạm được thể hiện trong phả, có thể thấy một dòng họ được phát triển thịnh vượng phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố.
- Yếu tố đẳng cấp: Từ những người nông dân bình thường ở ba đời trước, đến đời thứ tư ông tổ chuyển sang đi buôn cam, là một tiểu thương, họ trở nên giàu có phát đạt, mua được chức hương lý. Như vậy ở làng họ đã ở vào đẳng cấp được tôn trọng. Nhờ có tiền, sang đời thứ năm con cháu đã đỗ đạt làm quan huyện quan phủ, vươn ra sống ở kinh kì. Như vậy ở cấp quốc gia họ đã đứng vào hàng ngũ thống trị. Việc chuyển đổi giai tầng là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của dòng họ, từ vị trí của những người được tôn trọng trong xã hội, họ mở rộng quan hệ, liên kết với những người cùng đẳng cấp để củng cố địa vị, đẳng cấp của mình.
- Yếu tố hôn nhân: Đây là một nguyên nhân quan trọng đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển của dòng họ. Kể từ đời thứ năm, họ Phạm bắt đầu có quan hệ hôn nhân với tầng lớp trên, đó là việc trở thành con rể của quan Tiến sĩ Thượng thư Bùi Thế Vinh(8) của ông tổ đời thứ 5. Liên tiếp các đời sau đều có con cháu kết hôn với những gia đình danh gia vọng tộc. Qua thống kê 6 đời, trong gia phả có 68 cặp vợ chồng, trong đó 41 cặp dòng nội 27 cặp dòng ngoại, hầu như đều đảm bảo yếu tố môn đăng hộ đối. Điều này đã giúp củng cố vị trí và sự vững mạnh của dòng họ này trong xã hội.
- Yếu tố giáo dục truyền thống gia đình: Đây là một dòng họ Nho học, do đó việc giáo dục truyền thống gia đình luôn tuân theo hệ tư tưởng Nho gia, các con cháu đều được dạy dỗ rèn cặp từ nhỏ tư tưởng phải học hành đỗ đạt để ấm thân phì gia, làm rạng danh tổ tiên. Đạo hiếu nghĩa được nhấn mạnh. Việc giữ gìn thuần phong mỹ tục trong dòng họ luôn được đề cao. Yếu tố này đã giúp cho dòng họ này trở thành một dòng họ có tri thức, được xã hội coi trọng, và được hưởng nhiều quyền lợi, bổng lộc trong xã hội.
ĐAĐL là một cuốn phả có nhiều giá trị, để nghiên cứu đầy đủ về nó cần phải có nhiều thời gian. Ở đây tôi chỉ xin được điểm qua một vài nét về giá trị của nó, mong rằng nó là một thông tin có ích cho những người quan tâm đến việc nghiên cứu gia phả.

Chú thích:
1. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm T1. Nxb. Văn Hóa, H. 1984, tr.331.
2. Dã Lan Nguyễn Đức Dụ: Gia phả, khảo luận và thực hành. Nxb. Văn Hóa, H. 1992, tr.148.
3. Dã Lan Nguyễn Đức Dụ. Sđd. tr.159
4. Xem: Bài kí Hành tại diên đối của Phạm Đình Hổ. Kim Anh giới thiệu. TC Hán Nôm số 4/1996, tr.46.
5. Phan Trọng Phiên: còn gọi là Phan Lê Phiên (1735-1809) đậu Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) làm quan đến Hộ bộ Hữu thị lang, Thư Lại bộ Hữu thị lang kiêm Tri Quốc Tử giám Tư nghiệp, tước Tứ Xuyên Hầu.
Phan Huy Dung: Người xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Oai. Làm Nho học Huấn đạo phủ Thái Bình dưới thời Lê Hiển Tông. Có tài nhưng mất sớm.
6. Hoa Công Phương (1651-?) Người xã Bình Dân huyện Đông An. Nay thuộc xã Tân Dân huyện Châu Giang, Hưng Yên. Đậu Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quí Hợi niên hiệu Chính Hòa (1683). Làm quan đến chức Hiến sứ. Bị bãi chức.
7. Vũ Thạnh (1664-?) Người xã Đan Loan huyện Đường An. Đậu Đình nguyên Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa (1685) lâm quan đến chức Thiêm đô ngự sử. Bị bãi chức. Sau lại được phục dụng, thăng đến chức Tự Khanh kiêm giám thị trường Võ học. Khi mất được tặng chức Tham chính.
8. Bùi Thế Vinh (1554-?) Người xã Yên Hoa huyện Quảng Đức nay thuộc phường Yên Phụ quận Ba Đình TP Hà Nội. Nguyên quán xã Đan Loan huyện Đường An. Nay thuộc xã Nhân Quyền huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Dương. Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Diên Thành 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến Thượng thư. Sau theo về nhà Lê.

Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.11-18)
Trần Kim Anh

Nguồn tin: Viện Hán Nôm

Phạm Công Trứ với tấm bia đá thời Lý ở hương Cổ Liêu

PHẠM CÔNG TRỨ VỚI TẤM BIA ĐÁ THỜI LÝ Ở HƯƠNG CỔ LIÊU
ĐINH VĂN MINH
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Địa danh hương Cổ Liêu không biết có tự bao giờ. Các sách đăng khoa lục đều có ghi năm Ất Tỵ đời Lý Cao Tông, tức năm thứ 10 niên hiệu Trinh Phù, tháng 3 mùa xuân (1185) là năm thi sĩ nhân trong thiên hạ, Đỗ Thế Diên quê ở hương Cổ Liêu đỗ Trạng Nguyên. Đến đời Lê, hương Cổ Liêu gọi là Liêu Xuyên, bao gồm Liêu Thượng, Liêu Trung và Liêu Hạ. "Liêu Xuyên" được ghi chép trong một số thư tịch thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Liêu Xuyên nay là xã Liêu Xá và một phần thuộc địa phận xã Nghĩa Hiệp huyện Mĩ Văn, tỉnh Hải Hưng.
Trong sách Kiến văn tiểu lục, mục Linh tích, Lê Quý Đôn có chép rằng, ở Liêu Xuyên huyện Đường Hào có Triều nghị cỏ miếu, thờ thần tên là Đỗ Thế Diên, đỗ Trạng nguyên trều Lý, ông đem thổ trạch hiến làm chùa, bên phải chùa làm miếu, bên phải miếu làm mộ, đằng trước miếu có bia đá v.v..."Linh tích" mà Lê Quý Đôn nói trên đây nay vẫn còn ở thôn Thanh Xá xã Nghĩa Hiệp, ngôi miếu địa phương quen gọi là miếu ông Trạng, chùa gọi là chùa Nghĩa. Về tấm bia đá, Lê Quý Đôn mô tả: "Đằng trước miếu có một bia đá, hoa lá khắc tinh xảo, chữ bia phần nhiều bị mờ, chỉ còn độ năm sáu dòng, đề rằng "Bia chùa Chúc Thánh Báo Ân của hương Cổ Liêu, người lập bia đá là Đỗ Thế Diên [phẩm trật là ] Triều nghị đại phu, thủ nội thị sảnh, đồng tri Quảng từ công sự, kiêm phán Hình sự tứ kim tử ngư đại" (1).
Năm 1980, ông Tăng Bá Hoàng đã công bố tấm bia này và mô tả khá kỹ, có đối chuếu với những ghi chép của Lê Quý Đôn trong kiến văn tiểu lục, và kết luận: "Tấm bia dựng trước miếu Triều nghị, có tên làChúc Thánh Báo Ân tự bi, tác giả là Đỗ Thế Diên người hương Cổ Liêu thi đậu Trạng nguyên năm 1185, như vậy, bia có khả năng được dựng vào cuối thế kỷ XII...."(2).
Năm 1985, trong bài viết "Về những di tích, di chỉ nghệ thuật thời Lý", tác giả Nguyễn Du Chi cũng khẳng định: "đây là một tấm bia Lý thực sự", Tác giả còn cho biết thêm". Chữ trên bia bị mờ quá nhiều, nhưng có những dòng còn đọc được như tên bia tên chùa và tên tác giả. Tác giả của văn bia là một viên quan triều Lý tên gọi Đỗ Thế Diên, chức Triều nghị đại phu.
Cách đây vài năm, chúng tôi có dịp vệ Nghĩa Hiệp, đến thăm tấm bia này. Chúng tôi định dập lấy thác bản, nhưng thấy chữ mòn hầu hết, hoa văn họa tiết cũng rất mờ, đành về không. Gần đây chúng tôi lai về Nghĩa Hiệp, lần này chúng toi xem xét kỹ hơn-Những nét chữ còn lại cho biết đây là tấm bia có khắc chữ cả hai mặt. Mặt trước, ở dòng đầu bên phải, mấy chữ khá rõ: Cổ hương Chúc Thánh Báo Ân tự bi. Tiếp đó, ở dòng thứ tư, hai chữ Thiên giám 天 鑑 còn nguyên vẹn. Mặt sau không đọc được chữ nào nữa. Như vậy là số chữ chúng tôi đọc được ít hơn so với số chữ mà ông Tăng Bá Hoành đọn được cách đây 16 năm. Vấn đề chúng tôi đặc biệt quan tâm là tác giả và niên đại văn bia, nhưng vô phương tìm kiếm.
Trong kho thác bản văn bia do trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp để lại từ trước đến nay tấm bia này cũng không được ghi tên. Ngược dòng thời gian, trước Lê Quý Đôn một thế kỷ, Phạm Công Trứ là người duy nhất đọc những dòng chữ cuối cùng trước khi chúng bị thời gian bào mòn cách đây hơn ba thêư kỷ. Phạm Công Trứ (1600-1675) là nhà sử học xuất sắc thế kỷ XVII, ông là tác giả Đại Việt sử ký tục biên, quê ở Liêu Xuyên. Theo tài liệu bi ký, gia phả, sách Thừa tướng Phạm công niên phả(3), năm 1668, sau khi trí sĩ, nhân việc lập bia huệ điền, tu sửa lại chùa Báo Ân và miếu thờ Đỗ Thế Diên, ông thấy tấm bia đá trước miếu đã bị mợ nhiều, lo ngại thời gian cứ trôi đi, nhiều năm sau sẽ không đọc được nữa, bèn ghi lại những dòng còn đoc được để lại cho thế hệ mai sau. Bấy giờ, ông mo tả tấm bia đó như sau: "Từ đường có tấm bia đá cao 4 thước 1 tấc, rộng 2 thước 6 tấc, diềm bia hoa văn tinh xảo đẹp mắt, nhìn kỹ còn thấy rõ đượ năm sáu hàng, nét bút cứng cỏi. Câu chữ tuy không còn đủ, nhưng có thể hiểu được đại thể văn bia , biết được xuất xứ của ông Đỗ Thế Diên". Phạm Công Trứ cho biết mặt trước bia, dòng đầu có các chữ "Cổ Liêu hương Chúc Thánh Báo Ân tự bi tịnh tự". Các dòng tiếp theo là:
"Cổ Liêu hương Chúc Thánh Báo Ân tự bị tịnh tự. Triều nghị đại phu thủ nội thị sảnh đồng tri Quảng Từ cung công sự kiêm Phán hình viện sự, Thượng trụ quốc, tứ kim tử ngư đại Đỗ Thế Diên lập thạch".
Nghĩa là: Văn bia kiêm lời tựa chùa Chúc Thánh Báo Ân hương Cổ Liêu
Triều nghị đại phu thủ nội thị sảnh đồng Tri Quảng Từ cung công sụ, kiêm Phán hình viện sự, Thượng trụ quốc, được ban túi thêu cá vàng, Đỗ Thế Diên dựng bia.
Thân phụ ông giỏi thiên văn, làm quan thanh liêm, triều Nhân Tông [1072-1127] giữ chức Thiên giám, quyền Xá Linh Nhân cung chức, giúp đời có tiếng, lấy vợ người họ Kiều sinh ra ông. Nhà vua thi sĩ nhân ở điện, ông đỗ đầu, danh tiếng lừng lẫy, đức hạnh chính trực, nên được chọn vào trong cấm đình, hầu học ở ngự diên.
Mặt sau bia có các chữ:
"Giáp Tuất niên ngũ nguyệt nhị thập bát nhật, Thiếu trung đại phu, Chính sự viện đồng tri nghị chính sự, Kỵ đô úy trí chức.
Thí vi tam bảo lưu bản tự phụng sự hương hỏa, nhất sở Cửa Chùa, đông cận bản tự, tây cận...
Bà Đỗ Ất nương điền nhất sở, đông cận..."
Nghĩa là: Ngày 28 tháng 5 năm Giáp Tuất, Thiếu trung đại phu, Chính sự viện đồng tri nghị chính sự, Kỵ đô úy, đã về hưu.
Cúng một thửa ruộng Cửa Chùa làm ruộng Tam bảo để nhà chùa dùng vào việc hương hỏa cúng thờ, đông giáp Chùa, tây giáp...
Bà Đỗ Ất cúng một thửa ruộng, đông giáp....
Như vậy, trên bia đá thời Lý ở Liêu Xuyên, năm 1668, Phạm Công Trứ đã đọc được mặt trước 99 chữ Hán, mặt sau 57 chữ (trong đó có 3 chữ Nôm), tổng cộng là 156 chữ(4).
Từ những tư kiệu kể trên, rút ra mấy nhận xét:
Tác giả vaen bia: Đối chiếu sao chép của Phạm Công Trứ trong Thừa tướng Phạm Công niên phả với sự mô tả của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục thông tin ở hai nguồn tư liệu tương đồng, nhưng ở Phạm Công Trứ phong phú hơn nhiều. Nhờ sao chép của Phạm Công Tr mà ta có thể biết được lai lịch chức tước, đức hạnh, tài hoa, phẩm hàm của Đỗ Thế Diên. Cả Phạm Công Trứ và Lê Quý Đôn đều không nói tới tác giả và niên đại văn bia. Như vậy Đỗ Thế Diên là người dựng bia. Ngừoi dựng bia khác với người soạn văn bia. Người soạn văn bia mới gọi là tác giả văn bia. Tăng Bá Hoành và Nguyễn Du Chi đã nhầm người dựng bia là tác giả. Cứ theo nội dung đoạn văn bia mà Phạm Công Trứ sao chép, thì Đỗ Thế Diên không thể là tác giả được.
Về niên đại bia: Văn bia là một loại hình văn bản, trong từng văn bản, không phải văn bản nào cũng có ghi niên đại rõ ràng. Trong trường hợp văn bản không ghi niên đại, có nhiều cách để xác định niên đạ văn bản đó, như căn cứ vào sự kiện mà nội dung văn bản đề cập, phong cách , họa tiết, chất liệu, nguồn tư liệu khác nhắc đến văn bản đó v.v...Trở lại tấm bia chùa Chúc Thánh Báo Ân, Tăng Bá Hoành dè dặt kết luận"như vậy bia có khả năng dựng vào cuối thế kỷ XIX". Còn Nguyễn Du Chi thì nói: "Nếu so sánh với đồ án trang trí thời Lý quen biết thì dễ dàng cho rằng không phải thời Lý, nhưng qua những chữ còn lại trên bia và qua tài liệu thư tịch thì mới biết rõ ràng đây là một tấm bia thời Lý thc sự". Dù dè dặt hay " như đinh đóng cột ", hai tác giả đều cho rằng bia chùa Chúc Thánh Báo Ân niên đại đời Lý mà Lê Quý Đôn và Phạm Công Trứ đều không hề nói đến. Văn bia có chép hai sự kiện, một là Đỗ Thế Diên dựng bia, hai là quan Thiếu trung Kỵ đo úy đã về hưu và bà Đỗ Ất cúng ruộng giúp nhà chùa. Sự kiện trước xẩy ra khi có chuyện Đỗ Thế Diê hiến ruộng làm chùa và sau khi thi đỗ. Sự kiện sau cho biết ngày tháng năm can chi. Nếu loại trừ khả năng mấy dòng chữ nói về sự kiện thứ hai được khắc vào thời Trần thì, sự kiện này diễn ra vào ngày 28 tháng 5 năm Giáp Tuất chính là năm thứ tư niên hiệu Kiến Gia đời Lý Huệ Tông, tức năm 1214. Đây là niên đại bia chùa Chúc Thánh Báo Ân ở hương Cổ Liêu.
Giá trị bia chùa Chúc Thánh Báo Ân:
- Triều nghị đại phu Đỗ Thế Diên là một vị trạng nguyên, vị quan giỏi thời Lý, ông từng được ban tặng là "Đông Hải văn khôi". Tư liệu thư tịch nói về nhân vật này còn lại ít ỏi, nên phần thân thế, sự nghiệp, hành trạng còn để trống vắng. Bia chùa Chúc Thánh Báo Ân với tư liệu của Phạm Công Trứ đã góp thêm tư kiệu quí hoàn chỉnh dần chân dung Đỗ Thế Diên.
- Về mặt nghệ thuật - hoa văn trang trí trên diềm bia tha đổi khá nhiều so với các di văn từng quen biết, phản ánh một thời kỳ cuối đời Lý kỷ cương lỏng lẻo, xã hội không ổn định, nghệ thuật cũng không bị ràng buộc trong những qui chế, những quan niệm cũ nữa. Theo Nguyễn Du Chi: Bia chùa Chúc Thánh Báo Ân đã lấp một chỗ trống trong lịch sử mỹ thuật, là gạch nối, là điểm giao thời giữa hai nền nghệ thuật Lý và Trần.
Bia đá Lý - Trần là tài liệu quí hiếm, vì ở đó có thể khai thác, nghiên cu nhiều mặt xã hộ hai thờiđại oanh liệt trong lịch sử nước ta. Phạm Công Trứ sinh thời đã gìn giữ, phục chế tấm bia đá thời Lý ở Liêu Xuyên. Nhờ những tư liệu Phạm Cong Trứ để lại, giá trị tấm bia được khôi phục. Với những giá trị đó, bia chùa Chúc Thánh Báo Ân xứng đáng hội nhập vào phần sưu tập bia Lý Trần quí hiếm ở nước ta.

Chú thích:
1. Lê Quý Đôn toàn tập, tập II, Kiến văn tiểu lục, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội năm 1972, trang442.
2. Những phát hiện mới về khảo cổ học; 1980, Viện Khảo cổ học Ủy ban KHXH, trang 199.
3. Sách do cháu ngoại của Phạm Công Trứ là Lê Hữu Mưu biên soạn. Lê Hữu Mưu người xã Liêu Xá huyện Đường Hào, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Công bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên, là con của Lê Hữu Danh, cha của Lê Trọng Tín.
4. Hiện nay chỉ đọc được 10 chữ.
(Thông báo Hán Nôm học 1995, tr.205-212)
Nguồn tin: Viện Hán Nôm