Cội nguồn họ Phạm: Thời Lê sơ
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời Lê sơ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời Lê sơ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Phạm Bôi, một danh tướng công thần triều Lê


Lê Bôi, tên thật là Phạm Bôi, người làng Địa Linh, nay thuộc làng Đông Linh, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Vì ông được mang quốc tính nên sử ghi là Lê Bôi. Lê Lợi khởi nghĩa năm 1418 khi nhà Minh đã diệt xong triều Hồ và Hậu Trần, đặt được ách đô hộ lên toàn Đại Việt, do đó cuộc khởi nghĩa gặp muôn vàn khó khăn gian khổ. Hưởng ứng ngọn cờ kháng Minh cứu nước cùng với các danh nhân tướng lĩnh như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo…Lê Bôi cùng bảy người đều lấy họ là Phạm, dấy binh ứng nghĩa vào Lam Sơn phò Bình Định Vương Lê Lợi.

Ngay trong những ngày đầu gian khổ đó, kẻ thù ngày đêm lùng sục vây ráp hòng tiêu diệt nghĩa quân, Lê Bôi đã có chiến công. Trong trận Bồ Hải (12 – 1224), các tướng Lê Lễ, Lê Sát, trong đó có Lê Bôi dùng phục binh đại phá giặc Minh, diệt hàng ngàn giặc trong đó có Đô ty Chu Kiệt, khiến bọn Trần Tí, Sơn Thọ phải nhặt tàn quân chạy về thành Nghệ An. Trong trận đánh Tân Bình - Thuận Hoá mở rộng vùng căn cứ do Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ chỉ huy, Lê Bôi, Lê Ngân, Lê Văn An đem viện binh phối hợp (tháng 7 – 1425) đã góp phần giải phóng Thuận Hoá, mở ra cuộc diện mới cho nghĩa quân Lam Sơn, từ thế bị động chuyển thành thế chủ động tấn công, đem đại quân ra Bắc bao vây Đông Quan khiến bọn Phương Chính, Lý An phải xé quân từ Nghệ An ra cứu Đông Quan. Chủ động với thời cơ, Lê Lợi đem đại binh ra Bắc (tháng 9 – 1426) diệt viện binh giặc từ Vân Nam sang tại cầu Xa Lộc, bắt sống Đô ty Vi Lượng ở cầu Nhân Mục, buộc nhà minh phái Tổng binh Vương Thông và Mã Anh đem 5 vạn quân, 5000 ngựa sang cứu. Vương Thông đem cả quân cũ mới 10 vạn nống quân ra bến đò Cổ Sở, cầu Xa Đôi, cầu Thanh Đại hòng phá vây cho Đông Quan nhưng đều thất bại. Chiến thắng của nghĩa quân Lê Lợi ở cánh đồng Cổ Lãm, rồi Tốt Động, Chúc Động diệt 5 vạn quân, chém chết Trần Hiệp, Lý Lượng, bắt sống hơn vạn địch khiến cho bọn Thông, Kỳ chỉ thoát được thân chạy về Đông Quan.

Phối hợp cùng đại thắng trên đất Bắc, các tướng Lê Văn An, Lê Quốc Hưng, Lê Bôi…đã khép chặt vòng vây Ngệ An, quét sạch nhiều thành lũy của giặc ở Thanh Hoá khiến quân Minh đã bí nay càng bí hơn. Thừa thắng, Lê Lợi từ Thanh Hoá ra cắm dinh Bồ Đề chủ trương không đánh vào Đông Quan vội. Một mặt cho quân ra bao vây Đông Quan, mặt khác cho Lê Quốc Hưng đánh thành Thị Cầu; Lê Khả, Lê Niệm đánh thành Tam Giang; Lê Lựu, Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn; Trần Nguyên Hãn, Lê Lý…đánh ở Xương Giang. Nhà Minh sai viện binh Cổ Hưng Tổ đem 5 vạn quân, 5000 ngựa sang cứu nguy. Vừa đến ải Pha Luỹ liền bị Lê Lựu, Lê Bôi giữ ải đánh cho tan tác. Tháng 9 Đinh Mùi (1427), nhà Minh sai Thái phó Liễu Thăng cùng bộ hạ đem 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, theo đường Lạng Sơn đánh vào Pha Luỹ và cho Thái phó Mộc Thạch đem 5 vạn binh, 1 vạn ngựa từ Vân Nam đánh vào Lê Hoa. Quyết tâm tiêu diệt viện binh hùng mạnh của giặc, Lê Lợi sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Liệt đem 1 vạn quân tinh nhuệ và 5 voi phục sẵn địch ở Chi Lăng, cử Lê Bôi và Lê Lựu nhử giặc vào trận địa mai phục, chém chết Liễu Thăng, diệt 1 vạn tên ở Mã Yên; Lê An và Lê Lý đem 3 vạn quân đi tiếp ứng diệt 2 vạn tên. Lương Minh, Lý Khánh tử trận. Quân ta thu được quân trang quân dụng nhiều vô kể. Bọn Tụ liều chết tiến vào thành Xương Giang, nhưng thành đã bị hạ, tiến thoái lưỡng nan, đành chịu tan tác. Mũi viện binh của Liễu Thăng bị bại trận. Cùng lúc ấy, các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khuyển cầm cự ngoan cường với giặc. Lê Lợi cho đem cờ quạt ấn tín bại trận của Liễu Thăng đến Lê Hoa. Bọn Mộc Thạch mất hết hồn vía, chưa đánh đã tan. Quân ta truy kích diệt một vạn địch, bắt sống người và ngựa nhiều vô kể. Mộc Thach chỉ một mình một ngựa chạy thoát. Chờ viện binh thì viện binh đại bại, Vương Thông không còn con đường nào khác đành xin “giảng hoà” rút binh về nước.

Cuộc kháng chiến chống quân Minh của quân dân thời Lê đã toàn thắng. Trong cuộc định công thưởng tướng, trong 221 người có công, hơn 100 danh tướng được phong hầu; thượng tướng Lê Bôi được ban tước Hầu, tam phẩm công thần.

Sau khi đại thắng, Lê Lợi lên ngôi, lập triều Lê. Là một công thần khai quốc, cùng nhiều danh tướng công thần, Lê Bôi lại ra sức giúp vua an dân trị quốc, tăng cường quốc phòng mở mang bờ cõi, giữ vững biên cương, được Lê Lợi tin yêu trọng dụng. Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi; Lê Bôi được giao làm “Đông đạo hành quân tổng quản” lo việc quân cơ quốc sự. Lê Thái Tông mất, Lê Nhân Tông kế vị, Lê Bôi được giao giữ chức “Nhập nội hành khiển” tước Thái Bảo, góp công giúp nước. Liên tiếp ba năm (1444 – 1446), vua Chiêm Bi Cai vào cướp phá Châu Hoá, Lê Nhân Tông sai Thái Bảo Lê Bôi cùng tổng quản Lê Khả đem quân bình Chiêm, bắt sống Bi Cai, góp phần giữ vững vùng đất phương Nam thắng lợi. Cuối đời Lê Nhân Tông, nội bộ vương triều Lê xảy ra sự biến thoán nghịch: Lạng Sơn Vương Nghi Dân cùng đồng bọn đang đêm trèo tường thành vào cung giết Lê Nhân Tông cùng Tuyên Từ thái hậu cướp ngôi. Trước sự phản nghịch vô đạo này, Lê Bôi đã cùng các trung thần khác là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thu góp công dẹp loạn Nghi Dân, đưa Lê Tự Thành là người em khác mẹ của Lê Nhân Tông, lên nối ngôi tức là Lê Thánh Tông, mở ra sự phát triển cực thịnh triều Lê.
Là danh tướng công thần tận tuỵ phục vụ hết lòng ba triều vua không mệt mỏi, Lê Bôi được Lê Thánh Tông rất quý trọng sùng ân. Khi Lê Bôi mất, Lê Thánh Tông cho cử quốc lễ, ra chỉ dụ cho làng Đông Linh lập đền thờ, phong cho Lê Bôi cùng sáu người họ Phạm khác là Thành hoàng, Thượng đẳng phúc thần. Trong một lần đi đánh Chiêm đại thắng trở về, Lê Thánh Tông đã ghét thăm làng Đông Linh, thắp hương tưởng niệm Thượng tướng Thái bảo Lê Bôi.
Đình Đông Linh thờ bảy anh em ông họ Phạm qua nhiều thế hệ, được duy tu tôn tạo thành ngôi đình lớn, còn tồn tại đến ngày nay. Đình nay còn lưu giữ được các bức đại tự “Địa linh nhân kiệt” và hai câu đối có giá trị, nói rõ sự nghiệp vĩ đại của Lê Bôi và các chiến hữu của ông:

Đôi 1: Thất vị hạp lương năng, thinh khiếu đãng bình, danh tướng anh thanh đằng Bắc địa. Nhất môn chung vĩ tích, Lê Triều ban tặng Phúc thần dị tướng túc Nam thiên.
Tạm dịch: Bảy vị gộp tài năng, đáp lời dẹp giặc, danh tiếng anh hùng lừng đất Bắc. Một nhà chung công lớn, Lê triều ban tặng Phúc thần, danh tướng dậy trời Nam.

Đôi 2: Nguyệt đán Cao Bình Tam sĩ phẩm, văn minh tiến bộ tứ dân công. Thiên cổ Lam Sơn lưu vĩ tích, ức niên Đông địa lẫm ninh thanh.
Tạm dịch: Ngày tháng Cao Bằng hàm Tam phẩm, Văn minh tiến bộ ơn dân nước. Muôn thuở Lam Sơn lưu vĩ tích, ức năm yên thịnh đất Đông Linh.

Đình Đông Linh đã được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Làng Đông Linh nói riêng và xã An Bài nói chung có truyền thống yêu nước và văn hiến. Trong thời đại phong kiến, xã An Bài có 11 đại khoa, thì Đông Linh có 4. Khi thực dân Pháp vào xâm lược, Đông Linh có phong trào Cần Vương sôi nổi. Khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, tại Đông Linh, năm 1930 đã ra đời chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Phụ Dực.

Khúc Hồng Châu, tạp chí Xưa và nay số 305, tháng 4/2008

Di tích lịch sử Quốc gia: Đền - Chùa Hưng Thịnh, Hoàng Nam, Nghĩa Hưng, Nam Định


ĐỀN - CHÙA HƯNG THỊNH
(Xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định)
Xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo QĐ số 226-VH/QĐ, ngày 05/02/1994.
                       
            Đền - chùa Hưng Thịnh thờ hai vị tiến sỹ Phạm Nguyên Bảo và Phạm Đạo Phú triều Lê Thánh Tông năm 1487.

            Tiến sĩ Phạm Nguyên Bảo là cháu cụ Phạm Thời Cử. Cụ Phạm Thời Cử là một trong 3 vị thuỷ tổ châu chiếm cùng Cụ Phạm Đại Lang và Dương Thế An đến mảnh đất này từ năm 1425, lúc đó nơi đây còn là một bãi bồi hoang vu của bể nha Hải Nam. Sau 03 năm chiêu mộ và khai phá đến năm Lê Lợi nguyên niên 1428. Nơi đây được thành lập xã lấy tên là Hưng Phú và chia thành 02 thôn Đông và Đoài tức thôn Hưng Thịnh ngày nay…

            Tiến sỹ Phạm Nguyên Bảo sinh năm 1456 sau lập xã 28 năm. Khi lớn lên bắt đầu theo học 1 người nổi tiếng là học sỹ giỏi người thôn Đoài và người thi đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ khoa Đinh Mùi. Triều Lê Thánh Tông năm 1487 là một người có tài kiêm văn võ, người được vua phong chức phó đô ngự sử kiêm chức võ giai chưởng, quân nội thị, cầm một đội quân trông coi nơi dinh vua ở.

 
            Năm 1492 giặc ngọc lân do tên tướng Gia Đa Lý, cầm đầu nổi loạn ở vùng Hưng Hoá. Vua cử đại tướng Trần Trường đi dẹp. Tiến sỹ Phạm Nguyên Bảo làm sớ  tâu Vua xin được đi cùng, được vua chấp nhận và chính người đã chỉ huy chiến đấu bắt sống được tướng giặc Gia Đa Lý. Sau trận này được vua khen Tiến Sỹ Phạm Nguyên Bảo là người có tài Vua phong thêm chức Võ Huân Tướng công tả hiệu điển và cử đi giữ chức toàn quyền tuần thủ vùng Thanh - Nghệ. Người mất tháng 2 năm 1497 tức ngày 27 tháng giêng năm Đinh Tỵ. Chết cùng năm nhưng trước vua Thánh Tông 3 ngày.

            Triều đình thương tiếc mất một vi tướng tài tổ chức lễ quốc tang. Sắc phong tôn thần lê triều đinh vị khoa, đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, tạc vũ giai chưởng, nội thị thăng nghệ an trấn thủ, sỹ chí phó đô ngự sử tăng thiếu uý thuỵ vũ thánh, phạm tướng công uy linh phú dực, vũ dũng phân duơng, đại tướng đổng quân (công đoan tức đại vương trung đẳng thần). Rồi cử một đại quân rước thi hài về an táng tại quê hương Hưng Phú chữ hán ghi (lệnh tấn binh tống hồi) mộ người táng tại gồ con hạc cánh đồng tân xây thành lăng theo hình hạc rộng một xào bắc bộ.

            Khi rước thi hài tiến sỹ về bản quán đi qua tỉnh nào, tỉnh ấy có trách nhiệm nghênh tiếp và lập đền thờ (Phạm Tướng Công) vì vậy mà khu cột cờ Nghệ An cũ, Thanh Hà, Đông Sơn, Thanh Hoá có đền thờ Phạm Tướng Công Phạm Sá Đông cao thượng cũng có miếu thờ 2 tiến sỹ đây là nơi quê hương tổ tiên của cụ Phạm Thời Cử.

            Để tỏ lòng ngưỡng mộ và uống nước nhớ nguồn đối với các danh nhân có công với dân tộc. Ngay sau khi người mất năm 1497 nhân dân ta đã xây đền thờ phụng người ở phía bắc chùa do thôn Đoài trực tiếp phụ trách.

            Ngày 2 tháng 8 năm Canh Dần 1530 Tiến Sỹ Phạm Nguyên Bảo được thôn Đông xây đền thờ ở phía nam chùa, 2 ngôi xây song để thờ phụng người.

            Đến năm Tự Đức thứ 7 dân làng hợp nhất 2 đền vào làm 1 để thờ phụng.

            Kể thừ ngày người mất đến nay đã hơn 500 năm nhưng danh tiếng của người vẫn được bảo tồn qua các triều đại, tên tuổi, vị trí chức vụ của người được ghi ở Quốc Tử Giám Hà Nội được chép trong sử sách lưu trữ thư viện quốc gia.

 
            Khi người mất, nơi thờ phụng người vẫn có nhiều các bậc đại nhân, chí sĩ có tinh thần dân tộc yêu nước lui tới thăm viếng ngưỡng mộ người, làm nhiều câu đối tiến cúng để thờ phụng người, câu đối như sau:

Bút tận nghiêng thành uỷ khả uý
Nghĩa can trung giáp tử do sinh

            Hàn lâm thị giảng đại học sỹ Nguyễn Trọng Hợp tiến cúng, câu đối xin tạm dịch.
            Với kẻ thù bút nghiên thành gươm giáo, thành luỹ oai khả sơ
            Cả trung và nghĩa đều đứng hàng đầu, nên mất cũng như còn.

            Và dưới đây là thần tích của Tiến sỹ Phạm Văn Nghị soạn nói về thần tích vị trí chức vụ của người như sau:

Đại an có đất phát văn
Thủ lê Hoàng Đức thánh quân hiếu hiền
Khoa đinh vị lịch niên thập bát
Thần vào thi nhị giáp đề danh
Trời sinh võ nghệ cũng rành
Vũ giai chức thưởng thông minh trực hầu
Giặc ngọc lâu loạn miền hưng hoá
Thần xin đem binh mà đánh tan
Tâu về ngọc bệ chỉ ban
Phong cho làm chức nghệ an tấn thần
Giặc bốn mạn lê quân tự tướng
Chàn lại đem nghị tướng khởi hành
Bỗng đâu lạc vị tướng tinh
Cối sao cơ vị thiên đình thẳng lên
Tặng thiếu uý vũ thành tên thuỵ
Triều cho dân phụng sự làm thần
Uy linh thực đã xuất quân
Nhất môn liên chúng văn thần kế khoa
Sau 3 năm khoa là Canh Tuất
Thần đỗ lên tam giáp truyền lô
Tao đàn nguyên suý cung Vua
Nhị Thập bát tú đều đua thi tài
Chức thị lang thu hoài mấy buổi
Mạc cướp ngôi tìm lối thoái quy
Về sau lê tặng tham ty
Thuỵ là trung ý phong vi phúc thần
Thần hai vị hoán luân một miếu
Hộ tống xưa đại tiểu khôn bi
Phương rân nhớ phúc thần ri
An cư lạc nghiệp hi hi xuân đài

            Riêng về đối tự của ngài không có bút tích để lại, hương phả chữ hán của thôn chỉ ghi ao vườn của ngài ở xóm Tây An và 24 mẫu cấp tứ của nhà Vua ban cho 2 vị và có ghi ngôi mộ tổ phát tích ra 2 đức đại khoa táng tại gồ mai cua ở thôn Vân Cù nay là thôn An Lộc huyện Nam Trực có bia đá đề.

            (Hưng Phú Đại An nhị đại khoa tổ mộ xứ).

            Kèm theo văn tự nhân dân ta mua 1 sào ruộng tư điền thời tự đức để trả công cho người trông coi mộ tổ, hàng năm phải sắm lễ để ngày thanh minh các cụ ra thăm mộ lễ đức thần linh.
           

           
Xã Hoàng Nam đón bằng di tích lịch sử văn hoá theo quyết định số 226/VH/QĐ ngày 5/2/1994 đền, chùa thôn Hưng Thịnh thờ hai vị tiến sỹ Phạm Nguyên Bảo và Phạm Đạo Phú triều Lê Thánh Tông năm 1487.

            Trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT. Tường THCS Hoàng Nam được giao chăm sóc đền chùa Hưng Thịnh. Trường đã tổ chức cho học sinh học tập những nét lớn về thân thế sự nghiệp của tiến sĩ Phạm Nguyên Bảo và Phạm Đạo Phú. Tổ chức cho tham quan khu di tích để các em trực tiếp nhìn cảnh quan, cách bố trí nơi thờ cúng và sự đóng góp công sức của các thế hệ ông cha xây dựng ngôi đền chùa trang nghiêm thành kính để các em tri ân về cội  nguồn mà hai tiến sĩ đã có công phù lê dẹp ngoại xâm đem lại nền thái bình cho đất nước và xây dựng quê hương trù phú. Tổ chức dâng hương cùng địa phương nhân ngày mở hội. Phân công cho từng khối lớp làm cỏ trong vườn đền chùa, tưới nước chăm sóc cây hoa cây cảnh, quét dọn vệ sinh trong khu nội tự đền chùa.






 
Lương Thế Dũng - Phòng GD&ĐT
             (Bài viết và ảnh do trường THCS Hoàng Nam cung cấp)

Tiến sĩ Phạm Huy -Người con làng Cổ Bái

(BaoNghean) Trong công trình Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Sở Văn hoá- Thông tin Nghệ An ấn hành, 2000 (tr. 370-373) PGS. Ninh Viết Giao khẳng định Đền Cổ Bái, xã Đông Hải (nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc) là nơi thờ Tướng công- Tiến sĩ Phạm Huy (1470- ?), đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ Qúy Sửu, năm Hồng Đức thứ 24 (1493) đời vua Lê Thánh Tông, giữ đến chức Công Bộ đô cấp và từng đi sứ Trung Hoa. Sinh thời, Tướng công thương yêu, đùm bọc dân làng nên được người dân nơi đây kính cẩn lập đền thờ.  
Tộc phả dòng họ Phạm ở làng Cổ Bái còn ghi lại câu chuyện ngày xưa có hai mẹ con từ Hưng Yên dắt díu nhau hành khất qua làng. Thấy ngôi nhà thuộc hàng khá giả trong làng, hai mẹ con liền bước vào xin. Thấy cậu bé chừng 10 tuổi có tên là Phạm Lồng vẻ mặt khôi ngôi tuấn tú, chủ nhà tỏ ý muốn nhận cậu làm con nuôi và chu cấp việc học hành, còn mẹ cậu thì tiếp tục đi hành khất. Phạm Lồng bày tỏ lòng biết ơn với gia chủ tỏ ý không đành để mẹ đi hành khất một mình liền xin cho mẹ cậu được ở lại giúp đỡ việc nhà. Cảm kích trước tấm lòng hiếu đễ của Phạm Lồng, chủ nhà đồng ý để hai mẹ con cùng ở lại và cải tên cậu thành Phạm Huy với mong ước sự nghiệp của cậu sẽ được huy hoàng.

Phạm Huy ngày càng tỏ rõ sự thông minh hơn người, chẳng bao lâu sức học đã vượt bạn bè đồng trang lứa, người cha nuôi phải gửi cậu sang ông đồ làng bên (nay là xã Nghi Xuân - huyện Nghi Lộc) để tiếp tục được thụ giáo. Khoa thi năm Qúy Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493), Phạm Huy ghi danh bảng vàng với học vị Tiến sĩ, triều đình ban lệnh cho địa phương tổ chức lễ Vinh quy bái tổ.

Sắc phong của vua Cảnh Hưng (triều Lê) đối với công đức Tiến sĩ Phạm Huy.

Nhà báo Giao Hưởng (Báo Lao Động, thường trú tại Nghệ - Tĩnh), người sinh ra và lớn lên tại vùng đất này cho biết, lúc còn nhỏ ông được nghe dân làng Cổ Bái kể lại rằng, ngày ấy hai làng xẩy ra sự tranh chấp về quyền làm chủ lễ Vinh quy bái tổ của Tiến sĩ Phạm Huy. Làng bên cho rằng, nếu không có thầy đồ nhiều chữ của làng này dạy dỗ thì làm gì có Tiến sĩ Phạm Huy hôm nay. Còn làng Cổ Bái lí luận rằng, nếu không có gia đình cha mẹ nuôi cưu mang thì làm sao có một Phạm Huy giỏi dang để ghi danh bảng vàng. Hơn nữa, từ khi mẹ con Phạm Huy ở lại làng Cổ Bái thì đã là người của làng rồi, cho nên quyền làm lễ phải thuộc về làng Cổ Bái. Không làng nào chịu làng nào, cuối cùng triều đình phải vào cuộc phân xử và phần thắng thuộc về làng Cổ Bái.

Tham gia quan trường, làm đến chức Công Bộ đô cấp sự trung, về hưu lại đưa gia đình về sinh sống tại làng Cổ Bái. Lúc làm quan cũng như khi mãn nhiệm, Phạm Huy luôn thương yêu, chở che và giúp đỡ dân làng. Vì thế, dân làng Cổ Bái tôn ông làm Thành hoàng và lập đền thờ. Các bậc cao niên cho biết, đền làng Cổ Bái tồn tại đến những năm 50 của thế kỷ trước, về sau do chiến tranh loạn lạc không được trùng tu, tôn tạo nên bị đổ. Năm 2001, xã Phúc Thọ tổ chức khánh thành điện Đông Hải (cũng là một di tích tầm cỡ hàng đầu của xã Đông Hải xưa, nơi thờ vị anh hùng dân tộc Yết Kiêu và sát hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn, hai vị thủy tổ của nghề sông nước) ngay trên khuôn viên của đền làng Cổ Bái xưa.

Linh vị của Tiến sĩ Phạm Huy được người dân Cổ Bái dành một nơi trang trọng trong điện Đông Hải. Cần nói thêm rằng, điện Đông Hải được tái dựng từ lòng hảo tâm của lương y Phạm Thiên Long (1922- 2006), người con của làng Cổ Bái thành đạt trên đất Sài Gòn, và ông chính là hậu duệ của Tiến sĩ Phạm Huy.

Về làng Cổ Bái xưa, theo chân ông Trần Vân Nam (cán bộ giảng dạy Trường Đại học Vinh về hưu) đến điện Đông Hải, chúng tôi thành kính thắp một nén hương trước linh vị Tiến sĩ Phạm Huy. Cụ từ trông coi điện Đông Hải mở tráp cho chúng tôi chiêm ngưỡng bảy sắc phong của hai triều đại Lê- Nguyễn liên quan đến thân thế, sự nghiệp và công đức của vị Tiến sĩ làng Cổ Bái. Nội dung các bản sắc phong khẳng định công đức hộ quốc giúp dân, bảo vệ mùa màng của vị nhân thần được thờ tại đền Cổ Bái và lệnh cho dân làng quanh năm khói hương, thờ phụng và tổ chức tế lễ hàng năm.
 
Điện Đông Hải tái dựng trên nền Đền Cổ Bái xưa.

Trong đó, sắc ban năm Cảnh Hưng thứ 14 (triều Lê) khẳng định các bậc tiền nhân phong cho Phạm Huy làm Tử Vương ("Thần cai quản, hưởng lộc lâu dài một vùng") và nay tiếp tục "phong cho Đô cấp sự trung bái khê Phạm Công Khai xuất thân Đồng khoa tiến sĩ Qúy Sửu làm Hiến Đạt Đại Vương". Sau này, vua Lê Chiêu Thống phong tiếp "Hiến Đạt Uyên Nguyên Hùng Bái Đại Vương". Sang triều Nguyễn, năm Tự Đức thứ 11 Phạm Huy được "tặng thêm danh hiệu Tấn lương thần". Đến năm thứ 33 lại được "ban tặng Bảo chiếu Đàm âm, được tế lễ vào dịp Quốc Khánh". Năm Đồng Khánh thứ 2, công đức Phạm Huy được "ghi nhớ thần phả tặng thêm Dực bảo Trung Hưng chi thần". Năm Duy Tân thứ 3 tiếp tục ban sắc cho dân làng tế lễ vào dịp Quốc Khánh. Đến năm Khải Định thứ 9 tiếp tục "tặng thêm Quang ý Trung đẳng thần, đặc chuẩn tế lễ vào dịp Quốc Khánh".

Sự nghiệp và công đức của Tướng công- Tiến sĩ Phạm Huy là niềm tự hào của bao thế hệ người dân xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc nói riêng và toàn tỉnh Nghệ An nói chung. Vì vậy, thế hệ hôm nay cần có những việc làm thiết thực để ghi nhớ và tôn vinh người con tiêu biểu của quê hương.

Bùi Công Kiên

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

Tướng Phạm Xạ thời Lê và đình làng Vĩnh Thịnh

Làng Vĩnh Thịnh thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì vào cuối thế kỷ XIX có tên là Kẻ Bảo, thuộc xã Đại Áng, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Đến năm 1831, khi vua Minh Mạng đặt lại các tỉnh trong cả nước, Vĩnh Thịnh-Đại Áng thuộc tỉnh Hà Nội; từ năm Thành Thái thứ 16 (1904), Vĩnh Thịnh thuộc  tỉnh Hà Đông cho đến năm 1965. Sau đó, Vĩnh Thịnh thuộc  huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; năm 1978 lại thuộc huyện Thanh Trì, thành phố  Hà Nội.
Đình làng Vĩnh Thịnh.
Ở phía Tây Nam của huyện Thanh Trì có làng Vĩnh Thịnh chuyên trồng lúa và buôn bán nón Chuông của Thanh Oai, cót Vạn Phúc và  dụng cụ đánh bắt cá của làng Đan Nhiễm mang đi bán ở Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định… Một số người còn đi buôn bè tận Lào Cai, Yên Bái… Trong làng lưu truyền câu ca: Hỡi cô thắt lưng bao xanh/Có về Vĩnh Thịnh với anh thì về/Vĩnh Thịnh có nghiệp có nghề/Có đất làm nón có nghề đi buôn.
Những cái tên cổ, rất nôm na, giản dị như xóm Nghè, xóm Viềng, xóm Giữa, xóm Chùa, xóm Sau… thể hiện văn minh lúa nước, tình làng nghĩa xóm bền chặt trong quan hệ họ tộc và cộng đồng làng xã. Từ cái nôi văn hiến ấy, truyền thống anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm được bồi đắp từ thời Phùng Hưng đánh quan quân nhà Đường đến thời Lê Lợi đánh giặc Minh xâm lược
Thần phả đình làng Vĩnh Thịnh ghi rõ sự tích tướng Phạm Xạ, người đã cùng dân binh trong làng xung phong gia nhập nghĩa quân và trở thành vị tướng giỏi, chém chết tướng giặc là Liễu Thăng tại trận Chi Lăng (tháng 9 năm Đinh Mùi, 1427). Theo dân gian truyền lại và Thần phả còn lưu giữ, Phạm Xạ vốn gốc ở làng Minh Linh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Cha ông là Phạm Quảng muốn khôi  phục lại nhà Trần sau khi Hồ Quý Ly tiếm ngôi. Việc không thành, cụ dời đến làng Vĩnh Thịnh sinh cơ lập nghiệp, lấy con gái làng, họ Nguyễn. Bà sinh hạ được cậu bé khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Xạ. Càng lớn, Phạm Xạ càng giỏi cung kiếm, thông hiểu binh lược, văn võ toàn tài.
Cuối năm Bính Ngọ (1426), sau trận đại thắng ở Tốt Động, Lê Lợi quyết định tiến quân từ vùng Thanh-Nghệ ra Bắc, tiêu diệt quân Minh. Trên đường tiến quân, ngày 21-11-1426 ông đến Tây Phù Liệt, huyện Thanh Đàm  và chọn nơi đây làm tổng hành dinh. (Theo nhà sử học Nguyễn Vinh Phúc thì ngày nay, Tây Phù Liệt là các làng Mỹ Liệt, Tự Khoát, Việt Yên… thuộc Thanh Trì). Một đêm, ông vào lễ đền Hoành Sơn thờ Liễu Hạnh ở làng Vĩnh Thịnh, khi thiếp đi, Liễu Hạnh báo mộng cho ông biết, lần này xuất quân sẽ có một tráng niên tên là Xạ giúp ông phá tan giặc Minh. Tỉnh mộng, sáng hôm sau, Lê Lợi triệu tập dân làng hỏi có ai tên Xạ. Phạm Xạ yết kiến chủ tướng và biểu diễn những đường kiếm điêu luyện. Lê Lợi vui mừng giao cho ông tuyển mộ trai tráng, bổ sung 243 người vào nghĩa quân Lam Sơn. Những trận đánh quan trọng khi Lê Lợi-Nguyễn Trãi mở chiến dịch vây thành Đông Quan đều có tướng Phạm Xạ tham dự. Đặc biệt, trận Chi Lăng làm giặc kinh hồn bạt vía, “thây chất đầy đường”, chính Phạm Xạ giết tướng chỉ huy giặc là Liễu Thăng, sau đó ông được Lê Lợi phong chức Thống chế tả tướng quân.
Thành Đông Quan giải phóng, đất nước thanh bình, Phạm Xạ được vua Lê Thái Tổ ban thưởng. Ông về làng quê Minh Linh bái yết tổ tiên, sau đó, ông còn cầm 5.000 quân, trong đó có 52 thanh niên làng Vĩnh Thịnh đi dẹp giặc Chiêm Thành. Sau chiến thắng, trở về làng Vĩnh Thịnh mở tiệc khao quân, ông hóa ngay trong đại tiệc. Dân làng thương tiếc ông lập miếu thờ và tôn ông làm Thành hoàng làng. Hằng năm, vào ngày sinh 13-2 và ngày  hóa 10-11, nhớ ơn ông, nhân dân Đại Áng tổ chức long trọng tế lễ tại đình làng
Cảm phục và nhớ ơn tướng quân Phạm Xạ, tháng Tám năm Bảo Thái thứ 6 (1725), ông Phạm Công Quế, người làng Nhị Khê và vợ đã cúng tiền ruộng để làng Vĩnh Thịnh dựng lại đình khang trang. Năm 1932, đình được dân làng tu sửa lại. Đến nay, đình làng còn giữ được 14 đạo sắc phong vào các đời vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, một cuốn Thần phả, 8 bức hoành phi, 19 câu đối ca ngợi công đức của Thống chế Tả tướng quân Phạm Xạ:
Mưu dũng diệt gặc Minh, muôn thuở non Nam truyền tuấn kiệt
Tiếng thơm ngời dấu Thánh, nghìn thu làng cũ nhớ công ơn
Đình Vĩnh Thịnh, xã Đại Áng đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 2-10-1991, là niềm tự hào của người dân Thủ đô Hà Nội.
Kim Thanh
Nguồn tin: QĐND

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Bảo vật bị lãng quên

Trải qua bao binh đao, loạn lạc, hậu duệ của tướng Phạm Văn Liêu, người có công đầu trong trận đánh giữ thành Xương Giang (Bắc Giang ngày nay) vẫn luôn giữ bảo vật của dòng tộc. Tuy nhiên, chúng đang cũ kỹ và mủn dần đi...
Ngôi nhà đơn của gia đình ông Phạm Văn Côn nằm dưới chân núi Cấm, thôn Chùa, xã Xuân Hương (Lạng Giang, Bắc Giang). Khệ nệ bê ra chiếc tráp lớn đã chuyển sang màu xám, ông Côn mở ra, trong đó là những chiếc áo gấm trang trí rồng chầu mặt nguyệt, hoa văn thời vua chúa xưa… Nhiều chiếc mỏng, màu đen đã bị rách. Có áo do trải qua thời gian quá dài đã bị mủn, nhấc lên là cả lớp bụi bay ra.
Nói về nguồn gốc của những hiện vật trong cái tráp kia, ông Côn kể: “Tôi được cha giao lại cho, nói rằng đây là áo mũ của tướng quân Phạm Văn Liêu và công chúa Thiều Dương cách đây chừng 600 năm”. Số đồ trên là vật gia bảo, được truyền giữ từ đời này sang đời khác. Ở một chiếc thùng gỗ khác là 28 sắc phong ghi từ thời Lê Lợi. Một số sắc phong đã bị mối xông nham nhở.
Áo và sắc phong có tuổi đời chừng 600 năm đang bị mủn và mối xông. Ảnh: Công an nhân dân.
Theo một số tài liệu, Phạm Văn Liêu là con Phạm Văn Thánh, từng được phong hàm Đô đốc đồng tri, nguyên quán ở thôn Nguyên Xá, hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, xứ Thanh Hóa. Ông theo Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gây dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh từ những ngày đầu ở hội thề Lũng Nhai.
Trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, ông từng lập nhiều chiến công lớn trên chiến trường Nghệ An, Thanh Hóa. Khi Lê Lợi tiến quân ra Bắc, ông cùng các đại tướng tài danh như Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý… đánh thành Xương Giang thắng lợi. Phạm Văn Liêu là vị tướng chỉ huy một đạo quân mật phục ven sông Thương (vùng Xuân Hương, Mỹ Thái, huyện Lạng Giang ngày nay) rồi đồng loạt tổng công kích tiêu diệt và bắt sống hơn 7 vạn viện binh nhà Minh vào cuối năm 1427.
Tháng 10/1427, Lê Lợi đại phá quân Minh. Phạm Văn Liêu được phong Bình Ngô khai quốc công thần, chức vụ Tả sa kỵ Đại tướng quân và được nhà Lê chính thức đưa vào tập Sổ hội đồng. Ông đứng thứ 89 trong số 122 vị tướng lĩnh của Lê Lợi, được cấp nhiều thực ấp ở xứ Kinh Bắc và sinh cư lạc nghiệp tại xóm Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang ngày nay.
Phạm Văn Liêu có hai người con, một trai một gái. Con gái được tuyển vào cung, được phong làm Minh Phi. Trong sách Đại Việt thông sử, sử gia Lê Quý Đôn chép về bà như sau: “Phạm Minh Phi (vợ vua Lê Thánh Tông). Minh Phi họ Phạm là cháu của quan được tặng hàm Đô đốc đồng tri tên là Thánh và con của quan được tặng Đô Đốc đồng tri Tri Khang Vũ Bá Phạm Văn Liêu… Người con thứ hai của Phạm Văn Liêu là Phạm Đức Hóa. Phạm Đức Hóa lấy con gái thứ 8 của vua Thánh Tông Thuần Hoàng đế là Thiều Dương công chúa Lê Thị Ngọc Khanh. Như vậy, Phạm Đức Hóa vốn là em vợ, sau được kén làm phò mã của đức vua Lê Thánh Tông”.
Tướng Phạm Văn Liêu trở thành thủy tổ của dòng họ Phạm ở làng Chùa, xã Xuân Hương. Phần mộ và di tích đền thờ của tướng Phạm Văn Liêu đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử từ năm 1990. Thế nhưng, di tích này đang bị xuống cấp.
Ông Phạm Văn Lại là cháu đời thứ 16 của danh tướng Phạm Văn Liêu kể, cái tráp đựng quần áo của công chúa Thiều Dương và chiếc thùng gỗ đựng sắc phong được dòng họ của ông giữ gìn, bảo quản như báu vật. Thời kháng chiến chống Pháp, cả làng đi chạy loạn, chiếc tráp cũng được gánh đi theo. Người đi đâu, tráp theo đến đấy.
Khi giặc Pháp lùng dữ quá, đàn ông trong họ cho đồ gia bảo ấy vào tay nải để giấu. Trời nắng thì mang đồ ra phơi, nhưng chỉ dám phơi trong bóng râm vì sợ hỏng. Tuy vậy, do thời gian quá dài nên việc bảo quản không thể toàn vẹn được. Vải áo đã bắt đầu mủn ra, sắc phong thì bị mối xông mất một phần.
Đền thờ danh tướng Phạm Văn Liêu xây dựng trên một khu đất rộng hơn 1.600 m2, bao gồm phần hậu cung và tiền tế. Trong đền hiện còn giữ nhiều hiện vật, tài liệu, cổ vật có giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa như: kiệu, sổ hội đồng, bia đá, đồ thờ, câu đối thời Lê... Nhà tiền tế thiết kế theo hình chữ "nhất" với sáu hàng chân cột gỗ lim. Chiếc kiệu cổ không còn nguyên vẹn để phủ bụi ở góc đền thờ.
Đền thờ tướng Phạm Văn Liêu đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Ảnh: Công an nhân dân.
Ông Côn cho biết, mỗi khi trời mưa, nước chảy lênh láng qua các vết nứt hai bên tường đầu hồi, cộng thêm nước dột từ trên mái xuống đã hủy hoại nhiều cấu kiện gỗ trong di tích như cửa, quá giang, hoành và các vì kèo... Trước đây, Nhà nước từng cấp 10 triệu đồng để tu sửa di tích, nhưng số tiền này quá ít ỏi. Toàn bộ di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Dòng họ tự vận động các thành viên góp tiền sửa nhà tiền tế.
Ông Côn được dòng họ giao nhiệm vụ nhang khói đền thờ và phần mộ tướng Phạm Văn Liêu. Trước đây, tráp quần áo, sắc phong để tại đền thờ, nhưng nay sợ mất và bảo quản không tốt sẽ hỏng nên ông đưa về nhà từ năm 1960. Dòng họ Phạm đã đề nghị các cấp được sửa chữa để bảo tồn di tích nhưng chưa được đáp ứng. Đối với các bảo vật như quần áo lưu giữ mấy trăm năm, các sắc phong… cũng mới có người bên Sở Văn hóa đến xem, tìm hiểu chứ chưa có một kế hoạch bảo tồn, lưu giữ.
Trên núi Cấm, phía sau nhà ông Côn là phần mộ của tướng Phạm Văn Liêu. Nơi đây chỉ có hậu duệ của tướng Phạm Văn Liêu thắp hương, chăm sóc. Cách đền thờ chưa đầy một km là đền thờ công chúa Thiều Dương (gọi là đền Từ Mận) nằm bên dòng sông Thương. Cả một quần thể di tích thờ vị tướng thời Lê Lợi, nơi đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, nhưng không có nhiều người biết đến. Ngay cả lời giới thiệu, biển chỉ dẫn di tích cũng không có.
Theo Công an nhân dân