Phạm Bôi, một danh tướng công thần triều Lê ~ Cội nguồn họ Phạm

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Phạm Bôi, một danh tướng công thần triều Lê


Lê Bôi, tên thật là Phạm Bôi, người làng Địa Linh, nay thuộc làng Đông Linh, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Vì ông được mang quốc tính nên sử ghi là Lê Bôi. Lê Lợi khởi nghĩa năm 1418 khi nhà Minh đã diệt xong triều Hồ và Hậu Trần, đặt được ách đô hộ lên toàn Đại Việt, do đó cuộc khởi nghĩa gặp muôn vàn khó khăn gian khổ. Hưởng ứng ngọn cờ kháng Minh cứu nước cùng với các danh nhân tướng lĩnh như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo…Lê Bôi cùng bảy người đều lấy họ là Phạm, dấy binh ứng nghĩa vào Lam Sơn phò Bình Định Vương Lê Lợi.

Ngay trong những ngày đầu gian khổ đó, kẻ thù ngày đêm lùng sục vây ráp hòng tiêu diệt nghĩa quân, Lê Bôi đã có chiến công. Trong trận Bồ Hải (12 – 1224), các tướng Lê Lễ, Lê Sát, trong đó có Lê Bôi dùng phục binh đại phá giặc Minh, diệt hàng ngàn giặc trong đó có Đô ty Chu Kiệt, khiến bọn Trần Tí, Sơn Thọ phải nhặt tàn quân chạy về thành Nghệ An. Trong trận đánh Tân Bình - Thuận Hoá mở rộng vùng căn cứ do Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ chỉ huy, Lê Bôi, Lê Ngân, Lê Văn An đem viện binh phối hợp (tháng 7 – 1425) đã góp phần giải phóng Thuận Hoá, mở ra cuộc diện mới cho nghĩa quân Lam Sơn, từ thế bị động chuyển thành thế chủ động tấn công, đem đại quân ra Bắc bao vây Đông Quan khiến bọn Phương Chính, Lý An phải xé quân từ Nghệ An ra cứu Đông Quan. Chủ động với thời cơ, Lê Lợi đem đại binh ra Bắc (tháng 9 – 1426) diệt viện binh giặc từ Vân Nam sang tại cầu Xa Lộc, bắt sống Đô ty Vi Lượng ở cầu Nhân Mục, buộc nhà minh phái Tổng binh Vương Thông và Mã Anh đem 5 vạn quân, 5000 ngựa sang cứu. Vương Thông đem cả quân cũ mới 10 vạn nống quân ra bến đò Cổ Sở, cầu Xa Đôi, cầu Thanh Đại hòng phá vây cho Đông Quan nhưng đều thất bại. Chiến thắng của nghĩa quân Lê Lợi ở cánh đồng Cổ Lãm, rồi Tốt Động, Chúc Động diệt 5 vạn quân, chém chết Trần Hiệp, Lý Lượng, bắt sống hơn vạn địch khiến cho bọn Thông, Kỳ chỉ thoát được thân chạy về Đông Quan.

Phối hợp cùng đại thắng trên đất Bắc, các tướng Lê Văn An, Lê Quốc Hưng, Lê Bôi…đã khép chặt vòng vây Ngệ An, quét sạch nhiều thành lũy của giặc ở Thanh Hoá khiến quân Minh đã bí nay càng bí hơn. Thừa thắng, Lê Lợi từ Thanh Hoá ra cắm dinh Bồ Đề chủ trương không đánh vào Đông Quan vội. Một mặt cho quân ra bao vây Đông Quan, mặt khác cho Lê Quốc Hưng đánh thành Thị Cầu; Lê Khả, Lê Niệm đánh thành Tam Giang; Lê Lựu, Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn; Trần Nguyên Hãn, Lê Lý…đánh ở Xương Giang. Nhà Minh sai viện binh Cổ Hưng Tổ đem 5 vạn quân, 5000 ngựa sang cứu nguy. Vừa đến ải Pha Luỹ liền bị Lê Lựu, Lê Bôi giữ ải đánh cho tan tác. Tháng 9 Đinh Mùi (1427), nhà Minh sai Thái phó Liễu Thăng cùng bộ hạ đem 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, theo đường Lạng Sơn đánh vào Pha Luỹ và cho Thái phó Mộc Thạch đem 5 vạn binh, 1 vạn ngựa từ Vân Nam đánh vào Lê Hoa. Quyết tâm tiêu diệt viện binh hùng mạnh của giặc, Lê Lợi sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Liệt đem 1 vạn quân tinh nhuệ và 5 voi phục sẵn địch ở Chi Lăng, cử Lê Bôi và Lê Lựu nhử giặc vào trận địa mai phục, chém chết Liễu Thăng, diệt 1 vạn tên ở Mã Yên; Lê An và Lê Lý đem 3 vạn quân đi tiếp ứng diệt 2 vạn tên. Lương Minh, Lý Khánh tử trận. Quân ta thu được quân trang quân dụng nhiều vô kể. Bọn Tụ liều chết tiến vào thành Xương Giang, nhưng thành đã bị hạ, tiến thoái lưỡng nan, đành chịu tan tác. Mũi viện binh của Liễu Thăng bị bại trận. Cùng lúc ấy, các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khuyển cầm cự ngoan cường với giặc. Lê Lợi cho đem cờ quạt ấn tín bại trận của Liễu Thăng đến Lê Hoa. Bọn Mộc Thạch mất hết hồn vía, chưa đánh đã tan. Quân ta truy kích diệt một vạn địch, bắt sống người và ngựa nhiều vô kể. Mộc Thach chỉ một mình một ngựa chạy thoát. Chờ viện binh thì viện binh đại bại, Vương Thông không còn con đường nào khác đành xin “giảng hoà” rút binh về nước.

Cuộc kháng chiến chống quân Minh của quân dân thời Lê đã toàn thắng. Trong cuộc định công thưởng tướng, trong 221 người có công, hơn 100 danh tướng được phong hầu; thượng tướng Lê Bôi được ban tước Hầu, tam phẩm công thần.

Sau khi đại thắng, Lê Lợi lên ngôi, lập triều Lê. Là một công thần khai quốc, cùng nhiều danh tướng công thần, Lê Bôi lại ra sức giúp vua an dân trị quốc, tăng cường quốc phòng mở mang bờ cõi, giữ vững biên cương, được Lê Lợi tin yêu trọng dụng. Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi; Lê Bôi được giao làm “Đông đạo hành quân tổng quản” lo việc quân cơ quốc sự. Lê Thái Tông mất, Lê Nhân Tông kế vị, Lê Bôi được giao giữ chức “Nhập nội hành khiển” tước Thái Bảo, góp công giúp nước. Liên tiếp ba năm (1444 – 1446), vua Chiêm Bi Cai vào cướp phá Châu Hoá, Lê Nhân Tông sai Thái Bảo Lê Bôi cùng tổng quản Lê Khả đem quân bình Chiêm, bắt sống Bi Cai, góp phần giữ vững vùng đất phương Nam thắng lợi. Cuối đời Lê Nhân Tông, nội bộ vương triều Lê xảy ra sự biến thoán nghịch: Lạng Sơn Vương Nghi Dân cùng đồng bọn đang đêm trèo tường thành vào cung giết Lê Nhân Tông cùng Tuyên Từ thái hậu cướp ngôi. Trước sự phản nghịch vô đạo này, Lê Bôi đã cùng các trung thần khác là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thu góp công dẹp loạn Nghi Dân, đưa Lê Tự Thành là người em khác mẹ của Lê Nhân Tông, lên nối ngôi tức là Lê Thánh Tông, mở ra sự phát triển cực thịnh triều Lê.
Là danh tướng công thần tận tuỵ phục vụ hết lòng ba triều vua không mệt mỏi, Lê Bôi được Lê Thánh Tông rất quý trọng sùng ân. Khi Lê Bôi mất, Lê Thánh Tông cho cử quốc lễ, ra chỉ dụ cho làng Đông Linh lập đền thờ, phong cho Lê Bôi cùng sáu người họ Phạm khác là Thành hoàng, Thượng đẳng phúc thần. Trong một lần đi đánh Chiêm đại thắng trở về, Lê Thánh Tông đã ghét thăm làng Đông Linh, thắp hương tưởng niệm Thượng tướng Thái bảo Lê Bôi.
Đình Đông Linh thờ bảy anh em ông họ Phạm qua nhiều thế hệ, được duy tu tôn tạo thành ngôi đình lớn, còn tồn tại đến ngày nay. Đình nay còn lưu giữ được các bức đại tự “Địa linh nhân kiệt” và hai câu đối có giá trị, nói rõ sự nghiệp vĩ đại của Lê Bôi và các chiến hữu của ông:

Đôi 1: Thất vị hạp lương năng, thinh khiếu đãng bình, danh tướng anh thanh đằng Bắc địa. Nhất môn chung vĩ tích, Lê Triều ban tặng Phúc thần dị tướng túc Nam thiên.
Tạm dịch: Bảy vị gộp tài năng, đáp lời dẹp giặc, danh tiếng anh hùng lừng đất Bắc. Một nhà chung công lớn, Lê triều ban tặng Phúc thần, danh tướng dậy trời Nam.

Đôi 2: Nguyệt đán Cao Bình Tam sĩ phẩm, văn minh tiến bộ tứ dân công. Thiên cổ Lam Sơn lưu vĩ tích, ức niên Đông địa lẫm ninh thanh.
Tạm dịch: Ngày tháng Cao Bằng hàm Tam phẩm, Văn minh tiến bộ ơn dân nước. Muôn thuở Lam Sơn lưu vĩ tích, ức năm yên thịnh đất Đông Linh.

Đình Đông Linh đã được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Làng Đông Linh nói riêng và xã An Bài nói chung có truyền thống yêu nước và văn hiến. Trong thời đại phong kiến, xã An Bài có 11 đại khoa, thì Đông Linh có 4. Khi thực dân Pháp vào xâm lược, Đông Linh có phong trào Cần Vương sôi nổi. Khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, tại Đông Linh, năm 1930 đã ra đời chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Phụ Dực.

Khúc Hồng Châu, tạp chí Xưa và nay số 305, tháng 4/2008

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Đưa tôi về Trang chủ