Tiến sỹ Nho học huyện Đường An (15 TS họ Phạm) ~ Cội nguồn họ Phạm

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Tiến sỹ Nho học huyện Đường An (15 TS họ Phạm)

Bia văn chỉ huyện Đường An

Trên khu đất đình làng Hoạch Trạch tức làng Vạc thuộc xã Thái Học huyện Bình Giang còn nhiều bia đá. Trong số ấy có bia văn chỉ huyện Đường An.
 Bia cao hơn đầu người đặt trên bệ đá, 2 mặt khắc chữ Hán. Một mặt đề: “ Đường An văn chỉ bia” nói mục đích dựng bia để tôn sùng đạo Khổng chấn hưng văn hiến và ghi tên những người đã góp công của vào việc xây dựng bia văn chỉ. Một mặt đề: “Lịch dai tiên hiền bi” khắc tên các vị hiền tài của các làng trong huyện từ trước đến nay.
Đường An là tên huyện Bình Giang từ thế kỷ 12 thời nước ta thuộc nhà Đường nước Tàu, từ năm 618 đến năm 907. Năm 1885, vì kiêng tên vua Đồng Khánh là Đường mà đổi thành Năng An. Năm 1895, bỏ cấp phủ lấy tên phủ Bình Giang thay cho tên Năng An.
Ngày xưa ta học chữ Hán theo đạo ông Khổng Tử, nên ở kinh đô, ở ty, sở xác tỉnh đều xây văn miếu, ở từng huyện xã xây văn chỉ để thờ đức Khổng Tử và các học trò của ông. Hằng năm cứ đến mùa xuân, mùa thu, những người có học vị ở từng cấp lại tụ họp làm lễ đức Khổng Tử. Văn tế mời các vị có học vị, có công lao với dân, với nước đã qua đời gọi là các bậc tiên hiền về cùng hưởng.
     Tiên hiền bao gồm những người đỗ học vị tiến sỹ và những người không đỗ tiến sỹ nhưng làm quan có nhiều công trạng, được phong chức tước cao hay mở trường dạy học, hay nuôi nấng con cháu nhiều người đỗ tiến sỹ. Ngày xưa học trò thi hương đỗ cử nhân, mới được vào thi hội. Đỗ thi hội mới vào thi đình. Thi đình để phân những người đỗ thi hội làm 3 loại: Đệ nhất giáp tiến sỹ được học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa; Đệ nhị giáp tiến sỹ được học vị hoàng giáp; Đệ tam giáp tiến sỹ được học vị đồng tiến sỹ. Từ thời Lê về sau cứ 3 năm một lần thi hương và thi hội.
     Bia văn chỉ huyện Đường An dựng năm Thiệu Trị thứ 4, triều Nguyễn Gia Long năm 1844. Bài văn bia do cụ đỗ tiến sỹ khoa Bính Tuất 1826 chức Bắc Ninh học chính, quán làng Lương Đường kêu là Vũ Như Phiên soạn. Làng Lương Đường(Lương Ngọc) nay thuộc xã Thúc Kháng huyện Bình Giang, tỉnh hải Dương.
     Bia ghi họ và tên, học vị, chức tước 109 tiên hiền của 24 xã thuộc huyện Đường An.
     Lược kê tiên hiền từng xã như sau:
1.     Mộ Trạch có 42 tiên hiền, trong đó có 36 tiến sỹ gồm: Một trạng nguyên: Lê Nại; 9 hoàng giáp là: Vũ Hữu, Vũ Đức Khang, Vũ Quỳnh, Vũ Đôn, Vũ Cán, Lê Tử, Vũ Bạt Tụy, Lê Quang Bí, Vũ Đình Lâm;  26 đồng tiến sỹ là: Vũ Nghiêu Tá, Vũ Hán Bi, Vũ Nguyên Trinh, Vũ Hằng Trình, Vũ Lân Chỉ, Nhữ Mậu Tô, Vũ Tĩnh, Vũ Lương, Vũ Trác Lạc, Vũ Đăng Long, Vũ Công Lượng, Vũ Bật Hài, Lê Công Triều, Vũ Duy Doãn, Vũ Công Bình, Vũ Duy Khuông, Lê Cảnh Tuấn, Vũ Cầu Hối, Vũ Công Đạo, Vũ Đường, Vũ Đình Thiều, Vũ Trọng Trình, Nguyễn Thường Thịnh, Vũ Đình Ân, Vũ Phương Đề, Vũ Huy Đĩnh; 6 tiên hiền không có học vị tiến sỹ là: Vũ Nạp, Cự Họ Tạ, Vũ Duy Chí, Vũ Phương Tượng, Vũ Văn Hành, Vũ Phương Nhạc.
2.     Ngọc Cục có 8 tiên hiền trong đó có 2 hoàng giáp là: Bùi Danh Kiên, Trương Hữu Bùi; 6 đồng tiến sỹ là: Vũ Thiệu, Vũ Huy Viên, Phạm Điển, Phạm Liễn, Phạm Hữu Dung, Đào Tuấn Ngạn.
3.     Lương Đường có 8 tiên hiền trong đó có 2 hoàng giáp là: Đoàn Đức Pho, Nguyễn Dung; 6 đồng tiến sỹ là: Nguyễn Luân, Phạm Dương Úng, Vũ Huy Viêm, Phạm Quy Thích, Vũ Đức Khuê, Vũ Như Phiên.
4.     Hoạch Trạch có 7 tiên hiền trong đó có 2 hoàng giáp là: Vũ Tụ, Vũ Công Điệu; 5 đồng tiến sỹ là: Trần Vĩ, Nhữ Tiến Dụng, Nhữ Đình Hiền, Nhữ Trọng Thai, Nhữ Đình Toản.
5.     Đan Loan có 6 tiên hiền trong đó có 1 thám hoa là: Vũ Thạnh; 5 đồng tiến sỹ là: Bùi Thế Vinh, Vũ Huyên, Vũ Huy, Vũ Trần Tữ, Đào Vũ Hướng.
6.     Đình Tổ có 4 tiên hiền trong đó có 2 đồng tiến sỹ là: Vũ Đăng, Vũ Công Phự; 2 tiên hiền không có học vị tiến sỹ là: Trần Tiên và Đỗ Cảnh Lạc.
7.     Thời Cử có 3 tiên hiền, trong đó có 1 bảng nhãn là: Nguyễn Toàn An; 2 đồng tiến sỹ là: Nguyễn Lũ và Nguyễn Công Đạt.
8.     Lôi Khê có 3 tiên hiền trong đó có 1 đồng tiến sỹ là: Vũ Sâm và 2 tiên hiền không có học vị tiến sỹ là: Chu Lộc và Phạm Nguyện.
9.     Đào Xá có 3 đồng tiến sỹ là: Phạm Hựu, Phạm Quang Chiêu, Đào Huy Điển. (Nay Đào Xá thuộc huyệ Ân Thi)
10. My Thứ có 3 đồng tiến sỹ là: Lê Kim Quế, Lê Kim Bàng, Phạm Minh.
11. Lỗi Dương có 2 hoàng giáp là: Phạm Tăng và Phạm San.
12. Tuy Lại có 2 đồng tiến sỹ là: Vũ Loan và Vũ Mật.
13. Châu Khê có 2 đồng tiến sỹ là: Ngô Văn Huy và Hoàng Xuân Linh.
14. Trâm Khê có 2 đồng tiến sỹ là: Nguyễn Kính Chỉ và Nguyễn Đức Phu
15. Tòng Tranh có 2 đồng tiến sỹ là: Ngô Tuy và Nguyễn Bách Tuế.
16. Vĩnh Lại có 2 đồng tiến sỹ là: Đỗ Chính Lạc và Bùi Hoàn Khánh.
17. Nhữ Xá có 1 hoàng giáp là: Lê Thọ Khảo và 1 đồng tiến sỹ la: Nhữ Tôn.
18. Hà Xá có 1 đồng tiến sỹ là: Vũ Đức Lâm.
19. Hường Gián có 1 đồng tiến sỹ là: Đinh Khắc Minh.
20. Thanh Gián có 1 hoàng giáp là: Nguyễn Bá Dong.
21. Bì Đổ có 2 đồng tiến sỹ là: Phạm Thuần Nhiên và Phạm Thiên Túc.
22. Lý Đông có 1 đồng tiến sỹ là: Phạm Nguyên.
23. Bình Đê có 1 thám hoa là: Lưu Khắc Chuyên.
24. Tuấn Kiệt có 1 đồng tiến sỹ là: Phạm Đình Chung.
Q.Tiền sưu tầm
Nguồn tin: chaukhe.com

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Đưa tôi về Trang chủ