Cội nguồn họ Phạm

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

Về dấu tích ngôi đền thờ Phạm Tu ở bờ biển Diễn Châu - Nghệ An

Ở xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đã từng có một ngôi đền thờ danh tướng thời tiền Lý giữ yên bờ cõi phương Nam, giúp Lý Bí lên ngôi, lập nên quốc hiệu Vạn Xuân (544). Một tấm lòng trung quân ái quốc, đó là tướng quân Phạm Tu.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã Diễn Kim có ngôi Đền Cả, thường gọi là đền trong (vì nằm sâu trong làng)
Theo nhà văn Sơn Tùng, người đã dành nhiều năm nghiên cứu về nguồn cội đất Diễn Châu, đặc biệt là vùng biển bãi ngang. Ông đã tập hợp các tài liệu thu thập để viết một một cuốn sách có tên “Ông Biển”. Rất tiếc tác phẩm đó chưa kịp hoàn thành thì ông bị ngã bệnh. Nhà văn Sơn Tùng nói về lịch sử Diễn Kim và Đền Cả như sau:
“Từ khởi nguyên Kẻ Lũy tới trang Kim Hoa, rồi làng Hoa Lũy cho đến thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có ba đền nguy nga thờ thần và một đình trung đồ sộ.
Đền Cả “thôn Thượng” gọi nôm là thôn trên, nơi xuất xứ Kẻ Lũy. Đền Cả thờ thần thời Lý Nam Đế (Lý Bôn) quốc hiệu Vạn Xuân. Vào khoảng năm 541- 543, vùng biển Hàm Hoan (Diễn Châu) thường diễn ra nhiều trận đánh ác liệt (trong đó có trang Kim Hoa) giữa quân Lâm Ấp với quân ta, do tướng quân Phạm Tu và tả tướng quân Triệu Quang Phục chỉ huy. Dẹp xong giặc Lâm Ấp, về sau làng Đức Thịnh (Diễn Hải) dựng đền thờ Triệu Quang Phục (vua Triệu). Bên làng Hoa có đền Cả. Trước hai ngôi đền là cánh đồng màu rộng lớn gọi là cánh Đồng Ngô, nơi ghi dấu trận đánh ác liệt giữa quân ta với giặc nhà Lương hay còn gọi giặc Ngô bên Tàu. Mạnh Bá đại tướng quân Bùi Văn Thôn người làng Kim bị tử trận tại đây. Do vậy mà trước Cách mạng tháng Tám, theo lệ, hàng năm đến ngày rằm tháng ba âm lịch, họ Bùi khi tế tổ ở nhà thờ lớn, đồng thời cũng bày biện lễ vật gồm: Năm gánh cháo hoa, mỗi gánh là hai nồi mười đầy cháo, một gánh gồm ngô rang và bánh khô và một mâm đầy ngũ quả. Tất cả đồ lễ được đưa vào trước cửa Đền Cả để cúng tế Mạnh Bá đại tướng quân Bùi Văn Thôn. Lễ xong thì múc cháo vung khắp cánh đồng, bánh khô bẻ nhỏ cùng ngô rang rải khắp cánh đồng Ngô ban cho các vong hồn tử sĩ hy sinh vì nước vì dân và cho cả các linh hồn những người lính ngoại bang tử trận tại đây”.
Nhà văn Sơn Tùng cho biết thêm: “Đền Cả thờ Phạm Tu, làng Kim còn có thờ thần vị, thần phả của ngài Triệu Quang Phục và thần vị, thần phả Mạnh bá Đại tướng quân Bùi Văn Thôn”.
Theo Lịch sử Việt Nam, quyển thượng của Đào Duy Anh (1955) cho biết:
Qua năm 543, nước Lâm Ấp thấy Giao Châu vừa có biến bèn cho quân ra đánh phá đất Nhật Nam. Để bảo vệ lãnh thổ mới khôi phục được, Lý Bôn sai tướng là Phạm Tu đem quân vào đánh lui quân Lâm Ấp ở huyện Cửu Đức (Nghệ An)
Năm sau Lý Bôn lên ngôi vua, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu Vạn Xuân và đặt quan chức để xây nền tự chủ. Tinh Thiều làm tể tướng, Triệu Túc là Thái phó, Phạm Tu làm tướng quân ”.
Phạm Tu tướng quân vốn người Quang Liệt, huyện Thanh Đàm nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông sinh năm 476 mất năm 545. Thân sinh ông là Phạm Thiều, thân mẫu là Lý Thị Trạch.
 Vào năm 545 nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem quân sang đánh, quân ta thua trận thủy chiến ở vùng sông Lục Đầu (Hải Dương). Lý Nam Đế phải lui quân về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Do thành bằng đất. lũy bằng tre, gỗ nên không giữ được lâu. Tướng quân Phạm Tu lại tuổi cao, sức yếu không cầm cự nổi, đã anh dũng hy sinh ngày 20 tháng 7 âm lịch.
Như vậy ta có thể kết luận: Để ghi nhớ công đức đánh bại quân Lâm Ấp giữ yên bờ cõi phía Nam, người làng Kim xưa đã dựng Đền Cả thờ tướng quân Phạm Tu và tôn ông làm vị thần Bản Thổ linh quan của làng, còn người dân Đức Thịnh dựng đền thờ Triệu Quang Phục
Đền Cả làng Kim không biết được xây cất từ thời gian nào, chỉ biết Thần đền làng Kim có 42 sắc phong, từ thời Lý Thái Tổ đến thời nhà Nguyễn, vua Khải Định. Tuy nhiên, hiện chỉ còn sót lại 21 bản; 3 bản bị rách nát, 18 bản còn nguyên vẹn.
Trong 18 bản sắc phong nói trên, có 8 bản của Đền Cả. Bản xưa nhất là thời Lê Cảnh Hưng thứ 28 (1767) bản gần nhất thời Khải Định cửu niên (1924). Dưới đây là một  bản sắc phong thần Đền Cả:
 “ Sắc Bản thổ vị hiệu Quản Đông- Bắc linh quan, duệ thông hiển ứng thần mô, hùng đoán dực vận tế thế, hộ quốc bảo dân, phong công thịnh đức chiêu liệt, thùy hiếu đôn lương, tuyên từ tề thánh, hoằng mô vĩ lược, trung chính diễn khánh tuy phúc đại thần; thái nhất chung linh, phù dư dậng tú, ngự tai hãn hoạn, hạp cảnh tư mặc, tương chi công tích, cổ thùy hưu lũy, chiêu tịch âm, phù chi lực thịnh lữ. Ký chương đại đức biến vu, cái cử cựu chương, vị
Tự vương tiến phong
Vương vị lâm cư chính phủ tôn phù
Tông xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật, ứng gia phong mỹ tự, nhị tự khả gia phong Bản thổ vị hiệu..tuy phúc 
Diên hưu dụ trạch đại thần.
                                                 Cố sắc
Cảnh Hưng 28 niên 8 nguyệt, 8 nhật (1767)
Lược dịch:
Sắc cho bản thổ linh quan, cai quản vùng Đông bắc, là vị đại thần, thông minh mưu lược, quyết giữ vận mệnh nước nhà, che chở chở cho dân, công nhiều đức lớn, sáng suốt mạnh mẽ, đôn hậu hiền hòa, rộng lòng yêu người, mưu cao tài giỏi, trung thành chính trực, đem lại vui sướng cho dân.
Linh thiêng bậc nhất, có công lớn giúp vua, ngăn tai cản nạn, giữ  yên bờ cõi.
Xét xem công tích, để lại phúc thọ, tăng thêm điều lành, công sức chiêu tạ ân phù nhiều lắm vậy.
Đã rõ đức lớn rộng khắp, vì vậy:
Nhà vua tiến phong cho người đã tôn phù vương vị làm cho xã tắc vững bền rực rỡ, xét trật tự lễ nghi, gia phong:“Bản thổ vị hiệu... tuy phúc” thêm mỹ tự “Diên hựu dụ trạch đại thần”
Vậy, có sắc này.
Ngày mồng 8, tháng 8, năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767)
Kiến trúc Đền Cả được xây theo lối Tiền bái hậu cung:
 Hậu cung hay còn gọi nội điện là chỗ thâm nghiêm nơi thờ vị thần, trong cùng là cung cấm an phụng Thần vị. Phía trước an phụng Thần vị có ban thờ sơn son thiếp vàng, trên bàn có hương án và các đồ thờ, hòm đựng sắc vua phong, thần tích của các vị thần, biển ngăn: tĩnh túc và hồi tỵ…
Hai bên ban thờ là Tả Hữu nội gian đặt các hàng tự khí gồm cờ quạt, tàn lọng…ban thờ Thổ Công…
Một nhà Tiền bái hay gọi Tiền tế cũng chia thành ba gian. Gian chính là nơi tế tự... Hai bên có các dãy hương án khác làm nơi đặt đồ lễ của người làng hoặc khách thập phương đến tiến cúng. Trước nhà Tiền bái có treo hoành phi phía trên ban thờ nói về công đức của vị thần.
Trước nhà Tiền bái có sân rộng và hai dãy nhà hẹp lòng như hành lang gọi là Tả mạc, Hữu mạc dùng để quan viên sửa soạn áo mão vào tế lễ và cũng là nơi ngồi chờ khi làng vào đám rước. Trước sân nhà Tiền bái có cổng Tam quan và khoảng sân rất rộng thuận lợi cho dân làng tổ chức tế lễ hàng năm. Xung quanh Đền Cả là những cây trúc ken dày thành lũy và rất nhiều cổ thụ như cây quéo (cây muỗm) cây thị…
 Trước mặt Đền Cả là con sông Bầu Giang (Trái Bầu) rộng lớn được nối thông với kênh Nhà Lê, xưa kia thuyền bè tấp nập vào ra đưa sản vật đi khắp nơi.
Rất tiếc, sau Cách mạng tháng Tám và thời kỳ tiêu thổ kháng chiến, cả ba ngôi đền, một đình trung, một nhà thờ thánh Đức Khổng Phu Tử bị xóa sạch.
Mong rằng một ngày nào đó thôn trên xã Diễn Kim phục dựng lại ngôi Đền Cả, có nơi hương khói phụng thờ tướng quân Phạm Tu - vị Thần Bản Thổ của làng, để cho con cháu đời đời hạnh phúc, ấm no. Và xã Diễn Kim có lẽ là nơi duy nhất ở Nghệ An có đền thờ tướng quân Phạm Tu./.
(Theo Văn hóa Nghệ An)

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Đào Văn Lôi, Nhân vật của Xứ Nghệ được phong thánh gần 1000 năm trước

ĐÀO VĂN LÔI, NHÂN VẬT CỦA XỨ NGHỆ ĐƯỢC PHONG THÁNH GẦN 1000 NĂM TRƯỚC

THIÊN SƠN
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Lý có ghi, tháng 11 năm 1029 vua Lý Thái Tông phong Đào Văn Lôi là Tả phúc tâm. Với chức vị ấy, ông là một trong những người gần gũi với vua và có thể tham gia vào nhiều quyết định quan trọng của triều đình. Vậy Đào Văn Lôi là ai? Quê quán ở đâu và sự nghiệp ra sao? 
Đó hẳn còn là một bí ẩn đối với hầu hết mỗi chúng ta.
*
Tại Xã Diễn Kim (xưa gọi là Làng Hoa Lũy), Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An  trước đây có 3 ngôi đền từng được xây dựng và phụng thờ từ mấy trăm năm trước, nhưng sau cách mạng tháng 8, vì những thiên kiến của một số người, tất cả những ngôi đền ấy đã bị phá hủy.
Diễn Kim là vùng đất trước biển sau sông, dân sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dâu tằm và làm muối. Các cụ già thường kể lại nhiều câu chuyện kỳ lạ về sự linh ứng của thần linh nơi đây chở che cho dân trong những lần bão lớn ập vào làng. Một trong những giai thoại được truyền tụng rộng nhất kể rằng trong đợt hành quân vào phương Nam đánh Chiêm Thành năm 1471, khi thuyền rồng của Vua Lê Thánh Tông đi qua vùng biển Diễn Châu, đêm, vua được thần báo mộng có bão lớn, bèn sai lính cho thuyền đổ bộ lên bờ tránh nạn. Chỗ vua trú ngụ trên đất Hoa Lũy đến nay vẫn được nhân dân Diễn Kim ghi dấu, gọi là Bến Ngự. Sau lần đó, Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành thắng lợi, khi về đã ra lệnh lập đền thờ thần ở đất Làng Hoa Lũy. Nhiều sử liệu để lại cũng cho thấy, trước đó, vùng Lạch Vạn –cửa sông Bùng đổ ra biển (là ranh giới địa lý giữa Xã Diễn Kim và Diễn Bích ngày nay) cũng đã từng diễn ra nhiều trận đánh quan trọng giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành ở phương Nam và kẻ thù phương Bắc. Huyền thoại ở Làng Hoa Lũy kể thần đã phù hộ cho quân của tướng Đinh Lễ trong trận thủy chiến quan trọng tại lạch Vạn năm 1425, góp phần quan trọng để quân Lê Lợi hạ thành Hoan châu, tạo tiền đề đi đến chiến thắng quân Minh 2 năm sau đó.
Nhà văn Sơn Tùng cho biết, sau khi những ngôi đền ở quê bị phá hủy, một người cháu họ ở quê (con một gia đình trước đây đã trông coi đền Trang ở Diễn Kim) đã  gửi ra cho ông giữ 18 đạo sắc phong cho thần làng Hoa Lũy. Và chính nhà văn Sơn Tùng đã nhờ một người bạn là chuyên gia về Hán Nôm dịch toàn bộ 18 sắc phong đó từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ. Mong muốn của nhà văn Sơn Tùng là sau này có điều kiện sẽ khôi phục lại đền và phục hồi lại lễ hội Làng Hoa Lũy, đón 18 sắc phong về quê.
Đầu năm 2010 nhà văn Sơn Tùng kêu gọi nhân dân Diễn Kim khôi phục lại đền Làng. Tháng 6 năm 2010 ông về quê và có tổ chức buổi nói chuyện về lịch sử quê hương Diễn Kim. Sau đó, khi trở lại Hà Nội một thời gian, không may ông bị tai biến và phải nằm viện một thời gian dài. Vì vậy, tôi đã tiếp tục tìm hiểu lịch sử các ngôi đền ở Làng Hoa Lũy trên cơ sở tư liệu nhà văn Sơn Tùng để lại và tiến hành khảo sát thêm, bổ sung các nguồn tư liệu mới.
Từ bản dịch sắc phong mà nhà văn Sơn Tùng đã cho dịch trước đây, tôi đã nhờ nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, một chuyên gia trong lĩnh vực này rà soát và biên tập thành một bản dịch hoàn chỉnh hơn. Qua đó chúng tôi tiến hành phân loại, thì thấy trong 18 đạo sắc trải dài trong 157 năm, đạo sắc cổ nhất là đời Lê Cảnh Hưng  năm 28 (tức 1767), đạo sắc gần nhất là đời Nguyễn Khải Định năm thứ 9 (tức 1924), trong đó sắc phong cho 3 vị thần.
  1. Bản thổ linh quan
  2. Đại vương đô thái úy Thành quốc công
  3. Đông hải thái thú đại ngư ông.
Đông Hải Thái thú đại ngư ông được xác định là cá lớn (đại ngư), tức cá voi. Tục thờ cá voi cũng là một hiện tượng phổ biến của các ngư dân vùng ven biển.
Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ thêm về lai lịch 2 vị thần còn lại.
Chúng tôi đã tiến hành tìm trong các tài liệu cổ, trong thư tịch còn lại của viện Hán Nôm, với hy vọng tìm ra thần tích của vị thần Bản thổ linh quan, nhưng không tìm thấy tài liệu nào có thể làm rõ thêm những điều được ghi trong các sắc phong. Mà nội dung ghi trong sắc phong thì vô cùng vắn tắt, ngắn gọn. Ví dụ đạo sắc Cảnh Hưng năm thứ 28 ghi: “Sắc cho bản thổ linh quan, cai quản vùng đông bắc, là vị đại thần thông minh mưu lược, quyết giữ vận mệnh nước nhà, che chở cho dân, công nhiều đức lớn, sáng suốt mạnh mẽ, đôn hậu hiền hoà, rộng lòng yêu người, mưu cao tài giỏi, trung thành, chính trực, đem lại vui sướng cho dân. Linh thiêng bậc nhất, có công lớn giúp Vua, ngăn tai cản nạn, giữ yên bờ cõi.”
Trước đây, nhà văn Sơn Tùng, bằng nguồn tư liệu riêng của dòng họ và truyền khẩu dân gian, kết hợp với những cứ liệu lịch sử do ông thu lượm được, trong một bài viết về quê hương, ông đã viết như sau: “Đền Cả ở thôn Thượng gọi nôm là thôn trên, nơi xuất xứ Kẻ Lũy. Đền Cả thờ thần thời Lý Nam Đế (Lý Bôn) quốc hiệu Vạn Xuân. Vùng biển Hàm Hoan (Diễn Châu), nơi diễn ra nhiều trận ác chiến (trong đó có Trang Hoa) giữa quân Lâm Ấp với quân ta, do Phục Man tướng quân Phạm Tu và Tả Tướng quân Triệu Quang Phục chỉ huy. Dẹp xong giặc Lâm Ấp, về sau dân ở Đức Thịnh, nay là xã Diễn Hải dựng đền thờ Triệu Quang Phục. Bên làng Hoa có đền Cả. Trước hai đền là cánh đồng màu rộng lớn, gọi là Đồng Ngô. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hàng năm đến ngày rằm tháng Ba (âm lịch), họ Bùi cúng giỗ tổ ở nhà thờ họ, đồng thời bày biện lễ vật tế tổ tại cánh Đồng Ngô. Ông tổ Mạnh Bá Đại tướng quân Bùi Văn Thôn tử trận tại đây.”
Như vậy, nhà văn Sơn Tùng đã cho chúng ta biết, vị thần Bản thổ Linh quan thờ tại đền Cả của xã Diễn Kim chính là Phạm Tu tướng quân (có tài liệu nói Pham Tu chính là Lý Phục Man), một vị đại thần của thời Tiền Lý.
*
Việc của chúng tôi là tập trung tìm hiểu vị thần được phong là Đại vương đô thái úy Thành quốc công thờ tại đền TRANG – trung tâm của xã Diễn Kim ngày nay.
Tôi và anh Chu Xuân Giao đã khảo sát trong các tài liệu cổ, xác minh nhân vật trong sắc phong chính là ĐÀO VĂN LÔI. Nhưng trong các tài liệu bằng chữ quốc ngữ hiện thời có ghi khá lộn xộn. Có một số ý kiến cho rằng ĐÀO VĂN LÔI là con của Đào Cam Mộc (người được phong Tín Nghĩa hầu dười thời Lý Thái Tổ, sau khi mất được phong Thái Sư, Á Vương, là một trong những nhân vật quan trọng nhất đưa Lý Công Uẩn lên ngôi).
Tình cờ, tôi đã đọc được ý kiến tranh luận của ông Lương Thế Phiệt (đăng trên Website Hội nhà văn Việt Nam), ông Phiệt người ở làng Vân Tra (thuộc Xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng). Ông Lương Thế Phiệt cho biết, vị ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI hiện được thờ tại ĐỀN VÂN TRA, là một trong những ngôi đền cổ nhất của Hải Phòng (gần 1000 năm), đền đã được công nhận là di tích quốc gia năm 1994. Đào Văn Lôi có quê mẹ ở làng Vân Tra, quê nội ở Nghệ An, cha của Đào Văn Lôi là Đào Mộc chứ không phải là Đào Cam Mộc như một số tài liệu nói.
Nhận được thông tin này tôi đã liên hệ với ông Lương Thế Phiệt và ông Phiệt hết sức vui mừng viết thư cho tôi nói rằng, từ bao nhiêu năm nay, người làng Vân Tra vẫn chờ đợi một ngày nào đó, sẽ có một người từ quê nội của Thần liên hệ với bên ngoại, nhưng mãi bây giờ mới thấy. Ông Phiệt cũng cho biết, thần tích đền Vân Tra đã được ông Ngô Đăng Lợi, một trong những nhà nghiên cứu lịch sử địa phương của Hải Phòng sơ dịch. Bản chính của thần tích còn được lưu giữ trong viện Hán Nôm.
Tôi đã liên hệ với chị Đỗ Bích Tuyển, hiện là nghiên cứu sinh, công tác lâu năm tại Viện Hán Nôm Việt Nam. Chị Tuyển đã tìm được và dịch bản thần tích này ra chữ quốc ngữ.
Bản thần tích này do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573), và Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, Nguyễn Hiền sao chép lại ngày mồng 7 tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Nội dung bản thần tích cho biết nhiều nội dung quan trọng như sau:
Về lai lịch: Thần tích kể, cha của Đào Văn Lôi người gốc Hoan châu, có tên là Mộc, trước có họ Nguyễn, sau đổi thành họ Đào… Mộ của mẹ ông Đào Mộc nằm trên núi Tung Sơn phía bắc dãy Tản Lĩnh (chúng tôi xác định nơi này có thể thuộc về xã Trung Sơn, huyện Đô Lương ngày nay). Mẹ Đào Văn Lôi là Đỗ Thị Uyển, người làng Vân Tra, thuộc Hải Phòng ngày nay. Sở dĩ có mối lương duyên giữa ông Đào Mộc và bà Đỗ Thị Uyển là vì ông Đào Mộc  thời thanh niên rời quê ra Tràng An theo học. Nhờ một người bạn đưa về Vân Tra mà nảy nở mối lương duyên. Sau khi ông Mộc và bà Uyển cưới nhau thì họ trở lại Tràng An sinh sống. Đào Văn Lôi được sinh ra năm Đinh Hợi (987) ở Tràng An, và ở đó đến năm 13 tuổi thì cha mất, theo mẹ về Vân Tra sinh sống.
Đào Văn Lôi lúc nhỏ học hành thông tuệ. 24 tuổi đỗ đầu ở kinh đô, được cho vào làm ở Hàn Lâm Viện, rồi phong làm Phủ Úy Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Vì có tài lại nổi tiếng thanh liêm, yêu dân như con, sau được gọi về kinh phong làm Đô Đài, rồi Bình Chương sự, Nội Thị. Có công trong dẹp loạn tam vương nên được phong làm Tả phúc tâm. Từ đó về sau lần lượt được phong làm Trung thư thị lang, Tả tham tri chính sự, rồi Thái Úy Thành Quốc công.
Cuối đời Đào Văn Lôi về thăm quê và qua đời ở núi Kim Nhan (nay là huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An), vua Lý Thánh Tông đã lệnh cho nhân dân lập đền thờ.
Điều lưu ý là trong bản thần tích có đề cập đến một số nội dung mà trong Đại Việt sử ký toàn thư không ghi, hoặc ghi rất chung chung. Ở đây, tôi xin nêu ra một số điểm.
1. Đại Việt sử ký toàn thư ghi trận đánh giặc Man (tức Mán Hạc Thác) (1014) vua cử Dực Thánh Vương cùng các tướng đi đánh; trong thần tích ghi rõ Đào Văn Lôi cùng với Dực Thánh Vương đã đánh tan 20 vạn quân Man ở trại Ngũ Hoa.
2. Đại Việt sử ký toàn thư ghi, trong loạn tam vương, khi Lê Phụng Hiểu từ cửa Quảng Phúc xông đến chỗ Vũ Đức Vương, vương đem ngựa tránh, ngựa khuỵu xuống, Phụng Hiểu bắt đươc và giết Vũ Đức Vương. Trong thần tích lại ghi, nội thị Đào Văn Lôi cũng có mặt lúc đó, chính Đào Văn Lôi chém ngựa Vũ Đức Vương khuỵu xuống nên Lê Phụng Hiểu mới bắt và giết được Vũ Đức Vương nhanh chóng.
3. Trận đánh Chiêm Thành năm (Giáp Thân) Đại Việt sử ký toàn thư ghi Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Trong thần tích ghi Đào Văn Lôi cùng với Quách Gia Di chém đầu Sạ Đẩu và chính nhờ thành tích này ông được phong Thái Úy Thành quốc công.
….
Trong thần tích có những chỗ thần thánh hóa nhân vật. Nghĩa là có nhiều điểm dựa trên sự hư cấu của người viết, nhưng cũng có nhiều yếu tố hiện thực gần với chính sử.
Có một điều chúng tôi muốn nói ở đây: Đại Việt sử ký toàn thư bản nội các quan bản hoàn chỉnh và in lần đầu năm 1697, được soạn bởi nhiều đời sử quan thời hậu Lê, dựa trên những tài liệu trước đó (sớm nhất là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu thời Trần) trước Lê Văn Hưu, hầu như lịch sử chỉ tồn tại ở dạng truyền thuyết đã có nhiều biến tấu theo tâm thức dân gian. Đại Việt sử ký toàn thư cũng chứa đầy màu sắc huyền thoại và nhiều phần trong số đó không thể kiểm chứng. Trong khi bản thần tích về Đào Văn Lôi chúng tôi có trong tay là do Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573) và được Nguyễn Hiền chép lại năm 1736. Như vậy, hai văn bản này, về cơ bản được biên soạn vào những thời điểm lịch sử không xa nhau. Câu hỏi đặt ra là, tại sao trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Đào Văn Lôi không đậm nét như tầm vóc được truyền tụng của ông? Đó hẳn còn là một bí ẩn của lịch sử. Theo chúng tôi, có thể, thời kỳ đầu nhà Lý, những tư liệu còn lại không nhiều, gây khó khăn cho các sử gia. Đến cả Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc mà lịch sử cũng chỉ dành có mấy dòng, vậy Đào Văn Lôi không được nhắc đến nhiều cũng là điều dễ hiểu. Nhưng cũng có thể, có những lý do riêng trong lịch sử mà chúng ta chưa hiểu hết, đã khiến nhân vật này ít được đề cập trong chính sử.
*
Thời kỳ nhà Lý, vùng Hoan châu vẫn bị coi là Trại, lại thường nổi lên chống đối triều đình. Những người ở vùng này cho đến những thế kỷ sau vẫn ít có người đỗ đạt được triều đình trọng dụng. Trong lịch sử xứ Nghệ, Mai Hắc Đế là ông vua sớm nhất nổi lên chống giặc Phương Bắc, còn ĐÀO VĂN LÔI có thể là người đầu tiên đỗ đạt và làm quan đến hàng Thái Úy, rồi lại được xếp vào hàng Thái Bảo. Đó, hẳn nhiên là một niềm tự hào của người xứ Nghệ, nhưng hàng chục năm nay, người xứ Nghệ đã quên lãng.
Sau khi có trong tay bản thần tích, chúng tôi tiến hành khảo sát trên thực tế. Đoàn gồm ông Nguyễn Trọng Thể (Trưởng ban Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội),  anh Chu Xuân Giao và tôi đã vào tận Kim Nhan, thuộc huyện Anh Sơn, rồi đến xã Trung Sơn thuộc huyện Đô Lương (nơi mà chúng tôi xác định là có núi Tung Sơn), những nơi này đền thờ cũ đã bị phá hết. Chúng tôi lại đến xã Nghi Thái (thuộc huyện Nghi Lộc) – một địa danh mà theo cuốn Di sản hán nôm Việt Nam chúng tôi xác định là có thờ Đại Vương đô thái úy thành quốc công Đào Văn Lôi. Ở đây, ngôi đền cũng bị phá, chỉ còn lại một nền đất nhân dân để một bát hương để thắp vào rằm, mồng một hàng tháng.
Chúng tôi cũng đã lập một đoàn vận động xây dựng lại Đền TRANG  tại xã Diễn Kim do Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội làm nòng cốt, kết hợp với Ủy ban nhân dân xã Diễn Kim. Chúng tôi đã lên trình bày với nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười. Chúng tôi cũng đã làm việc với đồng chí Trần Chiến Thắng, thứ trưởng bộ Văn hóa thể thao và Du lịch, và vào làm việc với đồng chí Phan Đình Trạc, lúc đó là chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An. Ở tất cả những nơi đó, chúng tôi đều nhận được sự ủng hộ của các vị lãnh đạo. Đồng chí Phan Đình Trạc đã về tận xã Diễn Kim thăm lại di tích, nơi đã từng thờ ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG.
Từ cảm thức, chúng tôi cho rằng, sở dĩ phải lập lại đền thờ Đại vương đô thái úy thành quốc công Đào Văn Lôi là vì: Trên quê hương xứ Nghệ, một mảnh đất anh hùng và văn hiến, nên có ít nhất một nơi thờ tự một vị anh hùng, một bậc đại trí thức, một bậc đại công thần thời hậu Lý mà từ lâu nhân dân đã phong thánh.
Tôi vẫn nhớ lời đồng chí Phan Đình Trạc đã nói với chúng tôi trong buổi làm việc của đoàn, rằng nên mở một hội thảo về ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI. Đó là việc cần làm sớm. Và trong tương lai, trên đất xứ Nghệ nên có một con đường mang tên ĐÀO VĂN LÔI.
Tôi nhớ mãi khi đoàn đại diện Ban liên lạc đồng hương Diễn Kim do ông Nguyễn Trọng Thể dẫn đầu, cùng anh Lê Trí Trịnh, Chu Quang Thiện, Bùi Thái Trọng, Chu Xuân Giao và tôi xuống đền Vân Tra dự lễ Khánh hạ ngày 10/8 âm lịch năm 2010, nhân dân Làng Vân Tra đã kéo ra hàng trăm người ôm chầm lấy chúng tôi. Người dân nói, đây là cuộc gặp gỡ lịch sử giữa đoàn đại diện quê nội của đức thánh ĐÀO VĂN LÔI với quê ngoại của Ngài.
Năm 2012, nhân kỷ niệm 1025 năm ngày sinh của ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI, nhân dân Diễn Kim đã chính thức khôi phục lại lễ hội làng Hoa Lũy và làm một Am thờ ngài trên nền cũ ngôi đền khi xưa. Toàn dân nô nức đi dự hội.  Lòng vui khôn xiết sau nửa thế kỷ lại được thắp nén hương dâng lên vị thần làng, một vị công thần lập quốc ngàn năm trước, và là một ông tổ hiển vinh của người xứ Nghệ. Trong ngày lễ thiêng liêng đó, nhân dân được đọc lại những sắc phong của các đời vua thời trước phong cho thần. Ở đây xin trích đạo sắc năm Cảnh Hưng 44 (1783): “Đại Vương Đô Thái uý, Thành quốc công, gia phong là đấng cầm quyền trung hậu, theo điều nhân nghĩa, nêu cao tiết tháo, mưu lược sâu rộng, mạnh mẽ cương nghị, phù bật quân vương, khang dân, trạch vật, giúp đời, linh ứng. Lòng dạ sắt đá, chí phí sáng trong. Nơi trận tiền liều mạng trung tinh, hiển hách tự Thiên lôi; tấm thân tiết nghĩa lưu tiếng thơm mãi về sau. Sáng chói như mặt trời, tinh tú, thật đáng ngợi khen, vinh dự đã nêu cao…”
Trên những tư liệu hiện có, mùa thu năm 2012 này, tôi đã viết cuốn sách mang tênHoa Ưu Đàm lại nở, đó là một cuốn truyện lịch sử về cuộc đời và thời đại của Thái Úy Thành quốc công Đào Văn Lôi, thể hiện dưới dạng một truyền thuyết hiện đại xen giữa hư cấu và lịch sử, giữa hiện thực và huyền thoại.
Mong rằng, mọi người dân xứ Nghệ, dù ở nơi đâu, hãy góp một tấm lòng, để sớm khôi phục lại được ngôi đền khang trang thờ ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI. Con người vĩ đại được phong thánh từ gần 1000 năm trước ấy, mãi mãi là niềm tự hào và niềm tôn kính của chúng ta.
Hà Nội, Thu 2012
T.S

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Làng Canh Hoạch, nơi phát tích hiền tài đất nước


Nguyễn Thuỳ Linh
(Văn Hiến) - Cách Hà Nội hơn 20 cây số về hướng Tây Tây Nam, từ Hà Đông theo Quốc lộ số 6, đến Ba La, rẽ trái, theo đường 22 tới Ngã tư Vác, ta sẽ đến một ngôi làng cổ – mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt, nơi phát tích của nhiều bậc hiền tài đất nước.
Làng có tên nôm là làng Vác (xưa là Cổ Hoạch), nay là làng Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), Hà Nội. Nơi đây có dòng họ Nguyễn, một dòng họ nổi tiếng có “Trạng cậu, Trạng cháu”, sinh nhiều danh thần, danh tướng, nhiều người đỗ đại khoa có công với dân, với nước. Đây cũng là nơi phát tích của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền đã sinh ra Đại thi hào - Danh nhân Văn hóa Thế giới – Nguyễn Du.
Dòng họ Nguyễn ở làng Canh Hoạch mà khởi thủy là Nguyễn Bá Ký có quan hệ thân tộc với dòng họ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê. Sau khi Nguyễn Trãi bị triều đình quy tội tru di tam tộc, họ Nguyễn làng Canh Hoạch phải đổi sang họ Phạm để tránh liên lụy. Nguyễn Bá Ký đổi thành Phạm Bá Ký. Năm Quý Mùi (1463), đời Lê Thánh Tông, triều đình mở khoa thi đình. Phạm Bá Ký dự thi và đã đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, được khắc tên trên văn bia Tiến sĩ đặt ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội). Ông ra làm quan, giữ đến chức Binh bộ Thượng thư. Sau khi Nguyễn Trãi được Lê Thánh Tông minh oan, Phạm Bá Ký và con cháu dòng họ Nguyễn làng Canh Hoạch cũng bỏ họ Phạm, lấy lại họ Nguyễn.
“Hổ phụ sinh hổ tử”, con trai của Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký là Nguyễn Đức Lượng học giỏi, đỗ đạt cao hơn cha. Nguyễn Đức Lượng (1465 - ?) vốn có tên là Hề. Tại khoa thi năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (năm 1574), đời Lê Tương Dực, khi đã bước vào tuổi 50, Nguyễn Đức Lượng ứng thí và đã trúng Bảng Vàng Trạng nguyên. Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông được vua Lê Tương Dực ban tên là Đức Lượng. Khoa thi này cả nước có 5.700 người dự thi, lấy đỗ Tiến sĩ 43 người. Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lễ. Ông được bổ đi sứ phương Bắc, sau thăng chức Thượng thư.
Tiếp bước cha, con trai của Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng là Nguyễn Khuông Lễ, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (năm 1535), đời Mạc Đăng Doanh. Tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ làm quan đến chức Hữu Thị lang, tước bá, từng được cử đi sứ nhà Minh.
Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký có người con gái, chị của Nguyễn Đức Lượng, tên là Nguyễn Thị Hiền. Đến tuổi xây dựng gia đình, bà được gả cho Nguyễn Doãn Toại là con trai ông Thám hoa Nguyễn Doãn Địch – nguyên quán xã Cảo Dương (nay là thôn Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (cũ)), trú quán xã Canh Hoạch, nay là thôn Canh Hoạch, xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Nguyễn Doãn Địch đỗ Thám hoa khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (năm 1481), đời Lê Thánh Tông; làm quan đến chức Hữu Thị lang. Bà Nguyễn Thị Hiền và Nguyễn Doãn Toại sinh được cậu con trai đặt tên là Nguyễn Thiến, có tên hiệu là Cảo Xuyên. Ngay từ 6 tuổi, bà Hiền đã cho Nguyễn Thiến theo học cậu là Nguyễn Đức Lượng. Năm 38 tuổi, Nguyễn Thiến đi thi và đã đỗ Hội nguyên, được vua Mạc Đăng Doanh ban Đệ nhất giáp đệ danh (Trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn năm Đại chính thứ 3 (1532). Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam vẫn nói đến Trạng cậu (Nguyễn Đức Lượng) – Trạng cháu (Nguyễn Thiến), là vậy. Và đây cũng là hiện tượng duy nhất trong lịch sử khoa bảng nước ta.
Trạng nguyên Nguyễn Thiến (1495 – 1557) là bạn thân với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ trước Trạng Trình 1 khóa. Trạng nguyên Nguyễn Thiến làm quan dưới triều Mạc tới chức Lại bộ Thượng thư, Ngự sử đài Đô ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập nội kinh diên, tước Thư quận công. Ông thông gia với Phụng Quốc công Lê Bá Ly. Sau vì bất mãn với nhà Mạc, ông cùng với thông gia là Đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly dẫn quân vào Thanh Hóa quy thuận triều Lê Trung hưng. Vua Lê Trung hưng ban thưởng, cho giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển mộ quan lại cho nhà Lê trong khoảng 8 năm. Ông mất năm Thiên Hựu (năm 1557), đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi.
JPEG - 40 kb
Nghề làm quạt làng Vác
Con trai Trạng nguyên Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện, học trò Trạng Trình, song lại không theo nghiệp văn mà theo nghiệp võ. Nguyễn Quyện là một danh tướng lỗi lạc thời Mạc. Là người con có hiếu, sau khi cha Nguyễn Quyện là Trạng nguyên Nguyễn Thiến và thông gia Lê Bá Ly bỏ nhà Mạc, quy thuận nhà Lê Trung hưng, ông đã theo cha quy thuận triều Lê - Trịnh. Song, sau khi cha chết, Nguyễn Quyện và em trai là Nguyễn Miễn trở lại phục vụ nhà Mạc. Ông là một tướng tài, cầm quân đánh một số trận lớn thắng ròn rã đã làm thanh thế quân nhà Mạc cường mạnh hẳn. Dân gian thời ấy có câu đề cao công lao của Nguyễn Quyện đối với triều Mạc: “Quyện tồn mạc tại/ Quyện bại Mạc vong”. Trong thời gian tại chức, Nguyễn Quyện đã mang một bộ phận quân về xây dựng căn cứ quân sự lớn và mở mang thương nghiệp ở trang Cổ Hoạch, từ ngã tư Vác đến hết làng Tảo Dương. Đại bản doanh là khu nhà để sắc hiện nay ở làng Canh Hoạch. Chiến công của Nguyễn Quyện lẫy lừng đất nhà Mạc, vua Mạc phong cho ông lên bậc Thượng quốc công, rồi Thái bảo. Nhờ thanh thế của ông dân chúng quê hương ông rất tự hào. Thời ấy có câu ca:
Gái thì bẩy huyện xứ Đông
Trai thì Gạo, Vác cháu ông già Thường.
Bẩy huyện xứ Đông là quê hương nhà Mạc, còn Gạo (tức làng Tảo Dương), Vác (tức làng Canh Hoạch) là quê quán và trú quán của Thường quốc công Nguyễn Quyện. Trai gái ở những nơi trên giỏi giang, trung thành với nhà Mạc. Các học giả Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều đánh giá cao tài năng quân sự của Nguyễn Quyện.
Theo dòng trôi chảy của lịch sử mấy trăm năm trước, có một chi họ Nguyễn làng Canh Hoạch đã dời đi sinh sống và lập nghiệp ở vùng Nghệ – Tĩnh, trong đó có vùng đất Tiên Điền. Điều này đã được khẳng định qua phả hệ dòng họ Nguyễn Du ở Tiên Điền. Trạng nguyên Nguyễn Thiến sinh ra Nguyễn Miến tước Phù Hưng hầu. Người con thứ ba của Nguyễn Miến là Nguyễn Nhiệm (Nhậm), tước Nam Dương hầu. Năm 1601, Nguyễn Nhiệm tụ binh chống lại nhà Lê ở vùng Hoàng Giang (Ninh Bình), song bị thất bại, phải chạy vào ẩn cư ở Tiên Điền. Ông chính là cụ tổ của họ Nguyễn làng Tiên Điền sau này sinh ra Đại thi hào Nguyễn Du – Tác giả Truyện Kiều bất hủ - Danh nhân Văn hóa Thế giới.
Nhớ ơn công đức tổ tiên, ngay từ thời Hậu Lê, con cháu dòng họ Nguyễn làng Canh Hoạch đã góp công góp của xây ngôi nhà thờ tổ họ Nguyễn ở Canh Hoạch. Đến năm 1821, dưới triều Nguyễn, đền được tu tạo, đến nay vẫn còn giữ được nguyên dáng vẻ thủa ấy. Nhà thờ có kiến trúc chữ Nhị (chữ Hán), gồm nhà thờ và tòa tiền tế. Phía trước nhà thờ là Ao Bia ghi sự tích dòng họ. Cổng vào nhà thờ có 2 cột trụ, trên đỉnh trang trí đèn lồng và bông sen cách điệu. Gian giữa treo bức hoành phi với 3 chữ lớn “Trạng nguyên từ”. Trong khám thờ sơn son thếp vàng có đặt bài vị cụ tổ họ Nguyễn. Ở gian bên phải có cỗ ngai trên đặt chân dung Nguyễn Trãi và gian bên trái có khám thờ “Trạng cậu” – Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng, “Trạng cháu” – Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Hiện, trong nhà thờ còn giữ được một số hiện vật quí: hai bia đá tạc từ thế kỷ XVII, cuốn gia phả dòng họ, các sắc phong thần, một số câu đối sơn son thếp vàng. Đơn cử một đôi câu đối được thể hiện bằng một bút pháp mềm mại, uyển chuyển, có nội dung:
“Cữu Trạng nguyên, sanh Trạng nguyên, nhất giáp khoa danh quang sử bút / Phụ Tiến sĩ, tử Tiến sĩ bát truyền chung đỉnh dụ gia khương”
 
Dịch nghĩa:
 
Cậu Trạng nguyên, cháu Trạng nguyên, khoa bảng đỗ đầu, sáng ngời sử sách / Cha Tiến sĩ, con Tiến sĩ, tám đời hưởng lộc vua ban, phúc lớn gia truyền.
Với những giá trị lịch sử và văn hóa đó, tháng 1/1995, nhà thờ họ Nguyễn ở Canh Hoạch đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Tại vùng đất khoa bảng, nhân dân rất trọng lễ nghĩa. Theo văn bia, hàng năm, cứ đến ngày Tết, ngày giỗ “Trạng cậu”, “Trạng cháu”, các vị chức sắc của làng đều đem lễ vật đến thắp hương tại từ đường họ Nguyễn. Vào ngày hội làng 11 tháng 3 âm lịch, cùng với việc rước các vị thần làng về đình, các bô lão ở Canh Hoạch còn rước ba cỗ kiệu cùng cờ, biển đến rước ngai, bài vị các vị thủy tổ họ Nguyễn về đình tế hội đồng. Hội làng kéo dài từ ngày 11 đến 15 tháng 3 âm lịch. Chiều 15, lễ rước thánh hoàn cung. Hiện nay, hội làng Canh Hoạch đã được khôi phục giữ nguyên lệ đẹp này. Tại làng Canh Hoạch còn một nơi thờ một danh nhân họ Nguyễn nữa là Thường Quốc công Nguyễn Quyện. Nơi thờ ông có tên là Nhà Sắc hay đình Sắc. Nhà Sắc có kiến trúc kiểu chữ Nhất, ba gian, hai bên có tả hữu mạc. Gian giữa đặt long ngai và bài vị Thường quốc công Nguyễn Quyện, gian bên phải để hòm sắc của các triều đại phong kiến phong cho các vị thành hoàng, gian bên trái đặt bài vị bà Hậu, tức bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm, tục gọi là Bà Chúa Thuận, con Trạng nguyên Nguyễn Thiến.
Với vị thế địa linh sinh nhân kiệt như vậy, làng Canh Hoạch được đánh giá là một trong ba nơi có vị trí quân sự quan trọng và là nơi cư dân sầm uất, kinh tế phát triển ở vùng ngoài kinh thành Thăng Long xưa, đã đi vào câu ca có tự ngàn xưa:
Thứ nhất Cổ Bi
Thứ nhì Cổ Loa
Thứ ba Cổ Hoạch
Theo Văn Hiến 

Làng cổ yêu nước và cách mạng Quảng Thi – Xuân Thiên


Đoàn thanh niên huyện Thọ Xuân ra quân thực hiện chương trình “Chung tay xây dựng nông thôn mới” ở xã Thọ Lập. Ảnh: tư liệu
(THO) - Sông Chu tên xưa là Lương Giang do bốn ngọn nguồn đổ vào, một dòng sông đẹp, nước trong xanh, uốn mình lượn giữa đôi bờ bạt ngàn dâu, mía, ngô, khoai.
Thời chưa có đê điều, sông Chu hay đổi dòng. Nó lượn vòng qua núi Nghèo (tên chữ Ngưu Sơn), như cái tên Nghèo, giữa miền bán sơn địa cằn cỗi, hoang sơ, để lại một khúc sông lấp. Thời gian trôi qua với bao mùa mưa lũ, chính dòng sông Chu lại đem phù sa bồi đắp, lấp lên khúc sông cũ. Nhưng đời sông là cuộc hành trình không phút giây ngừng nghỉ, nó còn bận rộn, mải miết về xuôi, đành bỏ lại một công trình dang dở: La liệt đầm, hồ bên cạnh vô số gò cao, đống thấp...
Thời Lê Đại Hành, ông vua nông dân xuất thân con ở, con nuôi, đặc biệt khuyến khích khai hoang, mở mang ruộng đồng, trang ấp. Bốn ông họ Đình, họ Phạm, họ Lê, họ Trịnh đem người nhà đến khúc sông Lấp, tiếp tục công việc thiên nhiên không thể hoàn thành. Họ san đồi làm nương, lấp hồ cấy lúa. Chất đất phù sa tắm tưới mồ hôi ngay vụ đầu đã xanh rờn, no ấm. Bởi tốt đất nên nhiều cò đậu. chẳng bao lâu thành Thê ấp rồi Thê trang. Khi đã gây được cơ sở, họ tiến sang khu đầm sâu, mau rộng, lập thêm Sóc ấp, sau là Đàm trang. Cuối thời Trần, Thê trang sáp nhập Đàm trang thành Đàm Thi sách, thuộc hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (Thọ Xuân).  Bởi nguồn gốc đất đai nhiều đầm, hồ, dân gian thường gọi là Kẻ Đầm.
Nhà Lê Trung hưng lấy Vạn Lại, Yên Trường làm đô phủ. Nhà Mạc luôn đem quân đánh phá đô phủ, hoàng tử Duy Đàm con vua Anh tông (tục gọi Chúa Chỏm) được đem nuôi dưỡng tại Đàm Xá (tức Đàm Thi). Khi Duy Đàm nối ngôi vua (Thế tông), chữ “Đàm” kỵ húy, tên Đàm Thi đổi thành Quảng Thi. Riêng tên Đầm nôm na trường thọ, trải nghìn năm tuổi với những địa danh nổi tiếng: Làng Đầm, phố Đầm, Chợ Đầm, Bến Đầm, Chùa Đầm, Phà Đầm, Đồ Đầm...
Bởi lợi thế cận giang mà thành “Nhất cận thị” (Nhất cận thị nhị cận giang), chợ Đầm ra đời rất sớm. Làng Đầm hình thành 4 con đường ở giữa giống chữ “thập”, tỏa đi bốn phía: Ngả đường tây bắc lên miền núi: Ngọc Lặc, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn,... và nước bạn Lào; Ngả đường tây nam lên thị trấn Lam Sơn, Bái Thượng, qua sông sang huyện Thường Xuân có núi thiêng Chế Linh Sơn bất tử; Ngả đường đông bắc lên quê hương Anh hùng dân tộc Lê Hoàn, tới huyện  Vĩnh Lộc có thành đá Tây đô kỳ vĩ, rẽ sang một bên Thạch Thành qua đền Phố Cát ra Nho Quan, một phía là Hà Trung, ngược dốc Xây vượt đèo Tam Điệp ra Ninh Bình; Ngả đường đông nam qua đò Dầm, sang chợ Đường về thành phố Thanh Hóa rồi đi Nghệ An, Hà Tĩnh, Khu Tư, Khu Năm “dằng dặc khúc ruột miền trung”...
Làng Đầm trải dài bên bờ tả ngạn sông Chu, nhìn xuống bến Đầm thuyền đỗ san sát, bè gỗ, bè luồng nối đuôi hút tầm mắt, chiều chiều khói bếp vạn chài thơm lừng hương cá nướng. Những đêm trăng sáng, tiếng hò cao vút, kết nối tâm tình người muôn nẻo, làm sợi tơ hồng xe duyên đôi lứa, rồi neo đậu lại bến Đầm, phố Đầm...
Chợ Đầm lớn nhất nhì trong tỉnh, nơi tập trung hàng hóa lâm, thổ, thủy, hải sản, rừng xuống gặp biển lên, như nước chảy dồn chỗ trũng. Kho bãi ngổn ngang. Quán xá tấp nập. Áo nâu chen sắc chàm, tiếng Thanh hòa giọng Bắc.
Thuyền ván, thuyền buồm, thuyền mành, chiếc ra đụng chiếc vào... nước sông Chu bến trong thành bến đục... nơi đây góp mặt bạn hàng tứ xứ: Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng...
Chợ Đầm một tháng sáu phiên
Có cô hàng xén cười  duyên
                                bán hàng...
Đời Tự Đức, khoảng năm 1852, chợ Đầm dời sang địa điểm mới, hình thành phố Đầm sầm uất giữa lòng thôn mới Quảng Ích tụ hội kẻ gần, người xa: Hào Kiệt Nam Định, Bình Lục Hà Nam, Lâm Thao Phú Thọ, Thạch Hà Hà Tĩnh, cả kiều bào Trung Quốc, Thái Lan... dù không cùng họ, tất cả đều thờ chung hai vị thần tổ Phạm Bá Điền, Bùi Trung Thụy (gốc người Lương Kiệt, Vụ Bản, Nam Định) làm thần thành hoàng thôn Quảng Ích.
Trước đây, làng Đầm nghề lúa khó chống chọi những mùa lũ lụt nước sông Chu dâng ngập mái nhà. Để bù lại, nhân dân chú trọng phát triển nghề phụ “bách nghệ đua tài”: chăn nuôi gia súc, rèn, mộc, đan lát, dệt cửi, thợ nề, kim hoàn, đóng cối, may nón, nhuộm vải, may mặc, gạch ngói, lò gốm, nem chả,... Tương dầm ngon nổi tiếng bán vào tận Nghệ An, Hà Tĩnh, thành lời tục ngữ “Tương Đầm dầm cà Nghệ”...
    Phố Đầm hàng hiệu sầm uất, buôn bán phồn thịnh như một thị trấn: Hiệu thuốc Tây Nam Ích Long, thuốc bắc Quảng Phát, thuốc lào Mỹ Thái, hiệu vàng Tấn Long, hiệu nhuộm Tân Mỹ,... Đế quốc Pháp không bỏ sót phố Đầm để đầu độc tới hai cửa hàng rượu: Phông ten, Nam Đồng Ích, bắt dân tiêu thụ với giá cắt cổ!
Chùa Đầm, đình Đầm xây dựng rất sớm từ thời Lý, thời Trần, là những công trình kiến trúc lớn có giá trị nghệ thuật, đều ở thôn Quảng Thi. Sau 1945 rồi 1955, Quảng Thi sáp nhập với Quảng Ích thành xã Xuân Thiên và làng Đầm vẫn là một địa danh có tiếng trong tỉnh.
  Làng Đầm – Quảng Thi – Xuân Thiên thời khởi nghĩa Lam Sơn góp nhiều người, của cho công cuộc đánh đuổi giặc Minh, giải phóng đất nước. Đây cũng là làng quê danh tướng Lê Sao, làm đến chức Thiếu bảo đời Lê Nhân tông, Lê Sao mất khoảng đầu đời Quang Thuận ( 1460 – 1469), vua Thánh tông sai Nguyễn  Bá Ký soạn văn bia về khai quốc công thần Lê Sao và khắc dựng năm Quang Thuận thứ 3 (1462) tại quê quán để  lưu truyền hậu thế. Con trai Lê Sao là thái úy Phú quốc công Lê Thọ Vực văn võ toàn tài, mất năm Canh Thìn (1484). Kết thúc thắng lợi cuộc chinh phạt giặc dữ phía nam (1471) Lê Thọ Vực lập công đầu, được vua ban cấp nhiều tù binh. Ông đem họ về Thanh Hóa, mở đồn điền khai phá đất hoang, lập thành những trại ấp ở các huyện Lôi Dương (Thọ Xuân), Vĩnh Ninh ( Vĩnh Lộc), Tống Giang (Hà Trung), Yên Định...
Ở làng Đầm hiện  còn nhiều dấu tích thời khởi nghĩa Lam Sơn và Lê Trung hưng: Mả Ngô (nơi chôn giặc Minh), các đồn lũy: Đồn Rồn, đồn Chế, đồn Thị, Gò Căng (kho quân lương), thành Lũy (Lũy đất), Cột Cờ (quân tiền tiêu)...
Thời khởi nghĩa Cần Vương chống Pháp, con em làng Đầm tham gia nghĩa quân Tống Duy Tân hoạt động từ miền xuôi lên miền núi...
Làng Đầm đến với cách mạng rất sớm. Ban đầu chỉ là một số hoạt động như chấn hưng thương nghiệp (Tiên Long thương đoàn) do cụ đồ Uẩn tuyên truyền hưởng ứng phong trào đón cụ Phan Bội Châu, phong trào truy điệu cụ Phan Chu Trinh làm xôn xao dư luận phụ huynh học sinh Tiểu học trường Đầm, bí mật trao đổi nội dung tư tưởng “Tự do độc lập” do thầy giáo Hồ Văn Giai truyền bá...
Năm 1929, đồng chí Trịnh Quang Lịch, đồng chí Lê Văn Sĩ trong tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Yên Trường (xã Thọ Lập) đến làng Đầm bí mật gieo mầm cách mạng qua văn thơ cách mạng.
Giai đoạn 1930 – 1939 các đồng chí Lê Ngọc Lành, Lê Văn Trọng, Nguyễn Văn Tân,... thực hiện chủ trương của Đảng tổ chức hội Tương Tế Ái hữu vận động quần chúng chống lại lệ khai thác lâm sản của thổ ty, lang đạo, buộc phải bỏ thứ thuế vô lý này.
Ngày 7-7-1939, tại chùa Đầm, hơn một ngàn người tổng Quảng Thi, Quảng Yên dự cuộc mít tinh hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Đức Nghi đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và phát xít. Đầu năm 1940 đồng chí Trần Hoạt, cán bộ Xứ ủy Bắc kỳ thoát khỏi vòng vây của địch vào Thanh Hóa, về làng Đầm. Từ cơ sở này, đồng chí Hoạt đã bắt mối với các cơ sở cách mạng Kim Ốc, Phúc Bồi, Nam Thượng, Quần Kênh,... Tháng 4 năm 1940, tại Kim Ốc (xã Xuân Hòa), các đồng chí Trần Hoạt, Đặng Châu Tuệ, Hồ Sĩ Nhân thống nhất các cơ sở cách mạng thành lập “Tỉnh ủy lâm thời” do đồng chí Trần Hoạt làm bí thư.
Phong trào cách mạng càng mở rộng, địch càng khủng bố ác liệt. Một số cán bộ trung kiên bị địch bắt, trong đó xã Xuân Thiên có các đồng chí Nguyễn Đức Nghi bị tù đầy ở Buôn Mê Thuột, Nguyễn Văn Tân, Lê Văn Trọng bị giam ở nhà lao Thanh Hóa... Mặc dù bị địch  ngày đêm lùng sục, vây bắt, những đồng chí còn lại vẫn hoạt động tích cực, phong trào cách mạng quần chúng được củng cố, tinh thần đấu tranh lên cao, bí mật chuẩn bị tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đánh đuổi đế quốc Pháp và Phát xít Nhật. Đội tự vệ làng Đầm được  thành lập, đêm đêm tập võ ở Đống Lang, Rù Rì. Các ông Kiều Chân, Chất Đằng phụ trách rèn vũ khí, các ông Nhuận, Hùng, Kinh đảm nhiệm may cờ Tổ quốc, biểu ngữ.
Năm giờ sáng ngày 19-8-1945, nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, các lực lượng tự vệ, đoàn thể, quần chúng do ông Trịnh Ngọc Nhuận và ông Cao Ba phụ trách, tịch thu đồng triện lý trưởng, tuyên bố giải tán Hội đồng hương chức, thành lập chính quyền cách mạng lâm thời xã Xuân Thiên. Từ đây Quảng Thi -  Xuân Thiên hòa cùng phong trào cách mạng cả nước, chuẩn  bị góp người, góp của cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp, tiếp theo đế quốc Mỹ, cực kỳ gian khổ nhưng thắng lợi vô cùng vẻ vang.
Hoàng Tuấn Phổ
 Tài liệu tham khảo: Lịch sử xã Xuân Thiên; Lịch sử huyện Đảng bộ Thọ Xuân; Địa chí huyện Thọ Xuân.

Các làng, dòng họ khoa bảng ở Nam Định


Nam Trực là vùng đất có nhiều người đỗ và đỗ cao. Nam Trực là quê hương của 3 vị Trạng nguyên, 1 Hoàng giáp, 15 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 1 Phó bảng và 86 Cử nhân và Tú tài. Nói tới các làng khoa làng bảng ở huyện Nam Trực có thể kể đến: làng Cổ Chử với cha con Trần Văn Bảo và Trần Đình Huyên cùng đỗ đại khoa; làng Bái Dương với dòng họ Ngô (Ngô Thế Vinh đỗ Hoàng giáp; làng Bách Tính, Nam Trân, Vân Chàng, Tang Trữ, Lộng Điền...).
Vụ Bản được coi là quê hương của các vị Thám hoa và Hoàng giáp với 1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 3 Hoàng giáp. Đây là  quê hương của Trạng Lường nổi tiếng về toán học. Dòng họ Nguyễn ở làng Cựu Hào nay thuộc xã Vĩnh Hào, với những tên tuổi như: Nguyễn Xưởng đỗ Cử nhân năm 1786 mở đầu cho dòng họ Nguyễn. Nguyễn Thuyên 3 lần đậu Tú tài. Ông có 4 người con là Nguyễn Khâm, Tú Đoán, Tú Tương  và Ấm Thừa đều đỗ Tú tài. Nguyễn Thành, em trai Nguyễn Thuyên, đậu Tú tài 7 lần,  là ông nội của Nguyễn Văn Tính. Nguyễn Văn Tính đỗ Tiến sĩ khoa thi Tân Sửu (1901) năm Thành Thái thứ 13, cùng khoa với Phan Chu Trinh và Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người em thứ ba của Nguyễn Thuyên là Nguyễn Ngọc Đường cũng đậu Tú tài 4 lần.
Xuân Trường đứng đầu cả tỉnh Nam Định về số lượng người đỗ đạt, nhưng phần lớn là những người đỗ Cử nhân, tập trung nhiều dưới thời Nguyễn. Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân là danh hiệu cao nhất của sĩ tử vùng này đạt được. Nói đến làng khoa bảng của huyện Xuân Trường nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung không thể không nhắc tới làng Hành Thiện.
Làng Hành Thiện nổi tiếng là đất học và có nhiều người đỗ đạt trong thời kỳ phong kiến. Thời Nguyễn, làng Hành Thiện có số người khoa mục đứng đầu toàn quốc: 3 Tiến sĩ (Đặng Xuân Bảng (đỗ năm 1856), Nguyễn Ngọc Liên, Đặng Hữu Dương (đỗ năm 1889); 4 Phó bảng (Đặng Kim Toán (đỗ năm 1848), Đặng Đức Dịch (đỗ năm 1849), Nguyễn Âu Chuyên (đỗ năm 1884) và Phạm Đình Sắc (đỗ năm 1901); 87 Cử nhân và  con số người đỗ Tú tài lên đến hơn 200 người. Trong 42 khoa thi tổ chức ở trường thi Nam Định, khoa nào cũng có người Hành Thiện đỗ Cử nhân hoặc Tú tài. Có thể nói, Hành Thiện đứng đầu cả nước về số lượng người đỗ Cử nhân.
Đền thờ trạng nguyên Lương Thế Vinh
Khoa thi Hương năm Kỷ Mão 1879, làng  Hành Thiện có 3 người đỗ đầu là: Giải nguyên Nguyễn Âu Chuyên, Á nguyên Đặng Văn  Nguyện và thứ ba là Nguyễn Lý Thản. Dân làng Hành Thiện có câu: "Thần Chuyên, Thánh Nguyên, Trạng nguyên Thu" để ca tụng 3 người này. Ngoài ra, làng Hành Thiện còn có 4 người đỗ Giải nguyên và  4 người đỗ Á nguyên trong các kỳ thi Hương.
Không  chỉ có nhiều người  tham gia khoa bảng, làng Hành Thiện còn nổi tiếng về sự kiên trì, không nản chí, quyết tâm theo đuổi việc học hành, thi cử. Nguyễn Đăng Thiện đỗ Tú tài khi mới 19 tuổi nhưng đến 60 tuổi mới đỗ Cử nhân. Nguyễn Như Bổng dự 15 khoá thi Hương trong suốt 40 năm, chỉ đỗ Tú tài 2 lần và đỗ Cử nhân khi 60 tuổi.
Có rất nhiều người đỗ đạt của làng Hành Thiện giữ các vị trí trong hệ thống quan chức của triều đình phong kiến từ trung ương tới địa phương.
Số dòng họ, gia đình có nhiều người đỗ đạt ở Hành Thiện, Xuân Trường chiếm số lượng lớn như họ Đặng, họ Nguyễn, họ Phạm...
Những gia đình có ông cháu cùng thi đậu Cử nhân như: ông là Nguyễn Xuân Tháp (là người viết tác phẩm Hành Thiện bản ấp lịch triều đăng khoa lục văn hội thông ký) và cháu là Nguyễn Lý Thản; ông là Đặng Văn Bính và các cháu: Đặng Hữu Dương, Đặng Hữu Hộ, Đặng Hữu Hách.
Gia đình có cha con cùng thi đậu Cử nhân: cha là Đặng Hữu Đức, con là  Đặng Vũ Uyển; cha là Đặng Đức Cường, con là Đặng Đức Chính; cha Nguyễn Xuân Huyền, con Nguyễn Xuân Thống; cha Đặng Đức Nhu, con Đặng Đức Quyên, Đặng Đức Tiêu; cha Lương Trọng Xán, con Lương Ngọc Đĩnh.
Gia đình có chú cháu cùng thi đậu Cử nhân: chú Nguyễn Xuân Huyền, cháu Nguyễn Xuân Kinh; chú Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Thủ Ước, cháu Nguyễn Hân.
Gia đình có anh em cùng thi đậu: anh họ là Tiến sĩ Đặng Hữu Dương, anh Cử nhân Đặng Hữu Hộ, Đặng Hữu Hách, em Cử nhân Đặng Hữu Châu; anh Nguyễn Bá Huống, em Nguyễn Trọng Trù, Nguyễn Thế Tự cùng đậu Cử nhân. Trong đó Nguyễn Bá Huống và Nguyễn Thế Tự đỗ cùng khoa thi năm 1821; anh Nguyễn Đăng Kiều, em Nguyễn Như Bổng; anh Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng, em Cử nhân Đặng Ngọc Toản; anh Nguyễn Đức Ban, em Nguyễn Ngọc Liên; anh Đặng Đê Kinh, Đặng Văn Khánh, em Đặng Văn Độ cùng đậu Cử nhân.
Ý Yên là quê hương của các vị Hoàng giáp. Riêng huyện này đã có tới 7 vị Hoàng giáp, chiếm số lượng lớn nhất những người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ. Cùng với Xuân Trường, Ý Yên cũng là huyện có tiếng với các làng khoa bảng như làng Tam Đăng có gia đình Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, một người con đỗ Phó bảng và ba người đỗ Cử nhân; làng La Ngạn, xã Yên Đồng, có dòng họ Đỗ có truyền thống khoa bảng. Tổ đời thứ 9 của dòng họ Đỗ là Đỗ Huy Cảnh, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão năm 1819. Con trưởng của ông là Đỗ Huy Uyển đỗ Phó bảng năm 1841. Con trai của Đỗ Huy Uyển là Đỗ Huy Liêu đỗ Hoàng giáp năm 1879. Một số người khác trong  gia đình tuy không tham gia khoa cử nhưng vẫn học giỏi và làm nghề dạy học. Đây là gia đình mà cha con, ông cháu đều đỗ đạt. Từ đường họ Đỗ còn treo đôi câu đối:
Lục triều trung hiếu gia sinh Phật
Tam thế khoa danh quốc phúc hầu
Tạm dịch:
Sáu triều trung hiếu nối nhau, Phật sống trong nhà sao hiếm thấy
Ba đời khoa danh hiển hách, phúc thần được nước kính dâng thờ.
Ngoài ra các gia đình có cha con, ông cháu, chú cháu cùng thi đậu Cử nhân như: xã Phú Khê có cha con Hoàng Trọng và Hoàng Văn Tuấn ; chú Hoàng Văn Tuấn và cháu Hoàng Cẩn cùng đậu khoa thi năm 1876; cha Hà Trọng Thạc, con Hà Trọng Pha, người xã Nguyệt Lãng; cha Bùi Cung Quang, con Bùi Tiến Tiên, người xã Đông Duy; ông là Hương cống Trần Văn Vịnh, cha Trần Văn Tiến, con Trần Văn Cận, bác Trần Văn Quýnh, Trần Văn Thức, anh họ Trần Văn Tạo, Trần Tiễn Đắng cùng đậu Cử nhân, người xã Vũ Xuyên. Trong đó Trần Văn Quýnh và Trần Văn Tiến đậu cùng khoa thi năm 1848; chú Lã Xuân Oai, cháu Lã Xuân Trang, người xã Thượng Đồng; cha là Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, con là Cử nhân Khiếu Tứ Ứng, Cử nhân Khiếu Tam Lữ, người xã Trực Mỹ. Khiếu Tứ Ứng và Khiếu Tam Lữ là hai anh em đỗ cùng khoa thi năm 1900.
Làng Cổ Lễ huyện Trực Ninh,  có cha con họ Đào cùng đỗ đại khoa (cha là Đào Toàn Bân đỗ Tiến sĩ, con là Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên). Bên cạnh đó còn có các làng, xã có nhiều người đỗ đạt như Phương Để, Dịch Diệp.
Số người đỗ đạt thuộc thành phố Nam Định hiện nay không nhiều, nhưng đều có người đỗ Bảng nhãn, Thám hoa, Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân, Phó bảng và Cử nhân.
Theo: Địa chí Nam Định
(Nguồn từ www.dulichnamdinh.com.vn)

Di sản Hán Nôm ở họ Phạm làng Ngọc Hà

Nguyên văn chữ Hán:
成泰戊戌夏
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
孝 心 不 匱
以 似 以 續
 祿 百 福

Phiên âm:
Tích tại tiên dân
Dĩ dẫn dĩ dực
Kế tự bất vong
Hiếu tư duy tắc
Dịch dịch tẩm miếu
Thức lễ mạc khiên
Trắc giáng đình chỉ
Ư vạn tư niên
Tuy ngã tư thành
Thị hưởng thị nghi
Tử tử tôn tôn
Vĩnh ngôn hiếu tư
Hiếu tâm bất quỹ
Dĩ tự dĩ tục
Thiên lộc bách phúc

Dịch nghĩa:
Xưa việc làm của dân có pháp độ
Lấy lễ mà dẫn dắt, lấy lễ mà phù giúp.
Kế nối không quên
Mãi mãi suy nghĩ về đạo hiếu,
Lòng hiếu thuận làm phép tắc
Tẩm miếu được huy hoàng
Nghi lễ không sai
Trắc giáng nơi đây
Đến mãi muôn đời
Cầu tiên tổ phù hộ được thành công.
Ấy hưởng ấy nên
Con con cháu cháu
Mãi nói nghĩ điều hiếu thảo
Lòng hiếu thảo không khi nào thiếu sót
Để học theo mà nối theo
Nghìn lộc trăm phúc là đó

Dịch thơ:
Xưa kia các bậc tiên dân
Dạy nhau dẫn dắt đỡ đần lễ nghi
Phụng thờ kế nối không suy
Tấm lòng tư hiếu duy trì phép hay
Đời đời tẩm miếu dựng xây
Lễ nghi chẳng để sai trây chút nào
Tổ tiên thăng giáng ra vào
Muôn năm vẫn vậy lẽ nào dám quên
Đời sau suy tính phúc bền
Là điều phúc hưởng tuyên nên chẳng mòn
Mai này cháu cháu con con
Vẫn còn chữ hiếu chẳng mòn suy tư
Hiếu tâm chẳng sút chẳng hư
Kế noi học tập nối dư lâu dài
Trăm nghìn phúc lộc chẳng sai

                   Tây đường Nam khách Nguyễn theo cách trước dịch thêm
 ()

Bách đại di mưu Thi Lễ trạch
Nhất đường triển kính vũ sương tư
Trăm năm mưu kế dòng Thi Lễ
Một nhà kính cẩn gội ơn sâu 











 Nhà bác tôi ở làng Ngọc Hà, bác gái gọi ông Ngoại tôi bằng Cậu ruột. Ngày còn bé, tết đến gia đình thường đến chúc tết các cụ và 2 bác ở làng Ngọc Hà. Đường đi lúc đó còn heo hút chật chội, ruộng rau ao bèo còn nhiều lắm. Nhà ngói 5 gian, khu thờ buông vải đỏ che kín. Tôi không biết bên trong là gì. Mấy chục năm trôi qua, bác gái đã mất. Hôm nọ nhân đám cưới thằng cháu, lên chơi, thoáng thấy ánh vàng son sơn thếp trên nền then ở gác 2. Cơn nghiện chữ Nho - đồ cổ của tôi "vật vã". Xông lên hỏi thăm, tiện thể máy ảnh chụp cho kỳ đủ. Hứa sẽ dịch ra cho Bác trai. Theo như lời Bác, nhà bác họ Phạm, có cụ ông từng làm Đốc học Hoàn Long là cụ Phạm Đốc Mễ. Tôi còn chưa tra cứu kịp. Tạm đăng mấy bức hình lên Blog cho khỏi quên.