Cội nguồn họ Phạm

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Danh sách Thầy Cô giáo thời Hùng Vương

  1. Thời Hùng Vương thứ 6: Hùng Huy Vương có thầy Lý Đường hiện dạy học ở Yên Vĩ, huyện Hoài An, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam nay là huyện Ứng Hòa, Hà Tây. Thầy có hai học trò là Cao Đường và Lý Đá học giỏi thấu tỏ mọi lẽ kinh sách, người đương thời ai cũng khen là thần đồng. Lý Đá và Cao Đường trưởng thành đến khu Xuân La, Nguyễn Xá, trang Diên Phú, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam thấy nơi đây cảnh vật hữu tình, phong phú thuần hậu hai ông mở trường dạy học, nhân dân gửi con em vào học rất đông. Giặc Ân xâm lược, hai ông theo Phù Đổng đánh giặc, giặc tan về đến núi Sóc Sơn ông cùng Phù Đổng bay về trời. Nhân dân Xuân La, Nguyễn Xá, trang Diên Phú, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam lập đền thờ phụng.
  2. Thời Hùng Vương thứ 9: Thầy Lỗ Công dạy ở kinh thành Văn Lang, cháu ngoại vua Hùng Định Vương (Hùng Vương thứ 9) là Hoàng Trụ, ở xã Bồng Lai huyện Từ Liêm, Hà Nội theo học.
  3. Thời Hùng Vương thứ 16 – Hùng Tạo Vương có thầy Ngô Tiên Sinh, quê ở Châu Hoan dạy học ở Xuân Áng, xã Thụy Trang huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Dương có người học trò là Phan Hô, mày hổ, mũi rồng, tiếng như chuông, mới sinh ra đã có răng, học được một năm giỏi giang, văn võ tinh thông, tài trí khác đời. Ông chữa bệnh cho thái phi, vua thấy tài giỏi phong “ đốc trưởng tiền quân ngự đô lực sĩ, đông đại tướng quân Thiên hộ hầu”.
  4. Thời Hùng Vương thứ 18 – Hùng Duệ Vương có thầy Cao Đường dạy học
ở khu Khổng Tước, châu Hoan có người dạy học là Chu Hoằng theo học được hơn bốn năm mà văn chương thông thái, võ bị tinh tường. Ông theo Tản viên Sơn Thánh, trở thành vị tướng đánh Thục giỏi được  vua phong: “cai số đại vương”. Ngày 10 tháng 11, ông tự hóa nhân dân khu Bùi trang Hạ Bái huyện Diên Hà lập đền thờ phụng.
  1. Thầy Nguyễn Thiện quê ở Yên Vĩ động Hương Tích huyện Hoài An, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam đến dậy học ở thượng khu xã Vĩnh Lại huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông có hai người con trai cùng sinh giờ Ngọ ngày 12 tháng 8 năm Bính Tí, lại là hai học trò văn võ toàn tài, thao lược hơn người. Khi cha chết, hai anh em đến Sơn Tây vào yết kiến Tản viên Sơn Thánh và kết nghĩa anh em cùng nhau đánh Thục thắng lợi được Hùng Duệ Vương phong: đại tướng quân.
  2. Thầy Hải Đường tiên sinh dạy học ở kinh thành Văn Lang có người học trò tên là Nguyễn Mục sinh ngày 12 tháng 8 năm Giáp Ngọ con ông Nguyễn Danh Huyên và bà Đào Thị Túc ở trang Đông Đồ, huyện Kim Hoa phủ Từ Sơn xứ Kinh Bắc, đến ở nhà cậu ruột là ông Đào Công Hải làm huyện doãn trưởng, võ nghệ tinh thông. Hùng Duệ Vương yết bảng chiêu hiền. Nguyễn Mục ứng thi được vua ban chức: đại phu tham gia triều đình chính sự. Quân Thục xâm lược, Nguyễn Mục cầm quân đánh thắng giặc trở về được vua phong: ý mục đại vương. Ngày 2 tháng chạp năm Kỷ Dậu ông hóa, vua truy phong: thượng đẳng thần tối linh. Nhân dân tang Bối Khê huyện Đông Yên phủ Khoái Châu lập đền thờ phụng.
  3. Thầy Lã tiên sinh dậy ở Hồng Châu, Hải Dương có hai người học trò là Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em xinh đôi ngày mùng 3 tháng giêng năm Nhâm Dần. Lên 7 tuổi cha mẹ cho đi học thầy Lã tiên sinh. Năm 16 tuổi Cao Sơn và Quý Minh văn võ đã hơn người. Bấy giờ Hùng Duệ Vương hạ chiếu kén nhân tài. Hai ông ứng thi trúng tuyển, vua phong cho hai người chức chỉ huy sứ: Tả Hữu tướng quân. Vâng mệnh vua hai ông đưa quân trấn thủ ở sông Lô, sông Thao, sông Đà đề phòng quân Thục xâm lược. Hai ông lập đồn ở xã Tiên Du, huyện Phù Khang, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây về sau là Tiên Du, tổng Hạ Giáp, huyện Phù Ninh, Phú Thọ…Ngày 10 tháng 11 hai ông đã hóa, nhân dân nơi đây đã tôn thờ làm thành hoàng làng.
  4. Thầy Lỗ tiên sinh dạy học ở xã An Cảnh huyện Thiên Thi nay là huyện Ân Thi, Hưng Yên. Thầy có ba người học trò là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Chiêu, Nguyễn Minh là con ông Nguyễn Xuân và bà Đoàn Thị Nghi. Ba người cùng sinh một bọc ngày 10 tháng 3 năm Bính Thìn, thật là khôi ngô kỳ vũ. Năm lên 9 tuổi ba anh em đều theo học thầy Lỗ tiên sinh, học được 3 năm đã tinh thông văn võ. Năm 15 tuổi tài năng của ba ông đã nổi bật, nhân dân và hào kiệt trong vùng đều khâm phục. Năm 19 tuổi Hùng Duệ Vương ra bảng kén chọn nhân tài, ba ông đều trúng tuyển. Vua hài lòng phong cho ông Tuấn chức: Tư tào điển lạc quan, ông Chiêu chức: Ta Tư tào phán quan, ông Minh chức: Hữu Tư tào phán quan. Quân Thục đến xâm lược ba ông theo Tản viên sơn thánh đánh giặc.
  5. Thầy Lỗ Đường tiên sinh dạy ở xã Đại Đồng thuộc huyện An Đường phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương. Có người học trò là Trung Sơn Nhạc sinh giờ thân ngày 8 tháng giêng năm Giáp Thân, rất kỳ lạ mặt mũi khôi ngô, tuần tú trong bụng có điểm nét chữ “son” trông tựa như chữ thần tiên. Một tuổi đã biết nói, năm lên 7 theo học thầy Lỗ Đường, chẳng bao lâu văn võ kỳ tài được Hùng Duệ Vương giao cho chức: Bố Chính Quan. Quân Thục đến xâm lược, ông là vị tướng đánh thắng giặc rồi tự hóa. Nhân dân làng Nhiễm Dương tổng Nghĩa Xã huyên Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh lập đền thờ phụng.
  6. Thầy Niệm Hưng quê ở Mộ Trạch Hải Dương được nhân dân làng Lỗ Khê phủ Từ Sơn, Bắc Ninh đón về dạy học. Năm 23 tuổi nhà vua hạ chiếu kén anh tài. Niệm Hưng ứng tuyển được Hùng Duệ Vương phong chức: Chỉ Huy Sứ. Quân Thục xâm lược, ông lĩnh chức Tiền đạo đại tướng quân, đánh thắng quân Thục ông trở về Lỗ Khê tự hóa, nhân dân tôn thờ làm thành hoàng làng.
  7. Thầy Nguyễn Minh quê ở huyện Lôi Dương châu Ái đến xã Màn Xuyên tổng Đông Kết huyện Đông An mở trường dạy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoa thi, vào thi đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoa, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ 3. Ông cùng với Tản Viên Sơn thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi được vua phong: Trấn Chiêm Thành cửa ải đại tướng quân.
  8. Thầy Lỗ tiên sinh dạy học ở Động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hóa, có ba người học trò là Cao Hiển Công, Cao Minh Công, Cao Tùng Công quê gốc ở Châu Ái đến ngụ cư ở lăng xương ba học trò này thật là dị tướng, hai gò má cao vọi,tay dài chấm gối, bàn chân có 7 cái lông dài. Học mới ba năm mà đã am hiểu nghĩa ký kinh sử lầu thông. Vì có công đánh giặc Thục khi hóa được vua phong: Thượng đẳng phúc thần.
  9. Thầy Phạm Công Tuyển quê ở Trang Hội Chiểu huyện Hoằng Hóa phủ Hà Trung châu Ái. Làm quan ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Ông là người văn chương nổi tiếng. Sau khi vợ chết, ông từ quan về dạy học ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, sau lại chuyển về khu Đăng Xuyên xã Đăng Định huyện Thiên Thi.. Sau khi chết nhân dân xã Đăng Xuyên huyện Ân Thi tôn thờ thần làm thành hoàng làng.
  10. Thầy Vũ Công ở Mộ Trạch, Hải Dương dòng dõi thi thư lên kinh thành kinh đô Văn Lang ở thôn Hương Lan, ngày nay thuộc xã Trưng Vương - Việt Trì dạy học. Hai ông bà sinh được người con đặt tên là Vũ Thư Lang, khi trưởng thành Vũ Thư Lang tiếp tục nghề  dạy học của cha ở Trang Đông, Tàng Nam. Vũ Thư Lang đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Nhân dân đã lập đền thờ vợ chồng Vũ Thư Lang đền này có tên là: Thiên Cổ Miếu.
  11. Thầy Lý Đường tiên sinh dạy học ở động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hóa xứ Sơn Tây, Nguyễn Chiêu học thầy ba năm liên. Sau này Nguyễn Chiêu gọi là Tản Viên Sơn Thánh phò mã của Hùng Duệ Vương.
  12. Thầy Ngô Tiên sinh dạy học ở thô Trìn La, huyện Thiên Thi, xứ Sơn Nam. Có hai người học trò tên là Phạm Đá, Phạm Dũng cùng sinh một bọc ngày mùng 9 tháng 3 năm Kỷ Mùi, con ông Phạm Đạt và bà Đinh Thị Duyên, quê nội ở Sách Biện Sơn, huyện Lôi Dương phủ Thuận Thiên, châu Ái. Hai học trò này hình dáng Kỳ Dị, mày ngài hàm én, tay dài chấm gối, bàn tay có 7 chiếc lông mọc dài, năm lên 8 tuổi hai anh em đến học thầy Ngô Tiên Sinh mới học được vài năm đã thông kinh sử. Thời An Dương Vương có giặc đại Man đến cướp phá Cao Bằng, Hưng Hóa. Nhà vua truyền hịch tuyển lựa nhân tài, hai ông ứng tuyển được nhà vua phong cho ông Phạm Đá là Bình Man đô nguyên soái. Ông Phạm Dũng là: Thiên Quan đại tướng quân. Hai ông dẹp yên giặc lại trở về Trì La khi hóa nhân dân tôn thành Thành hoàng làng.
  13. Thầy Dương Như Tổn tiên sinh dạy học ở Lỗi Giang, Tề Giang xưa, nay thuộc Thọ Xuân, Thanh Hóa là thầy dạy tể tướng Lữ Giai thời nhà Triệu.
  14. Theo http://chuvietcolacviet.com

Đến Hải Dương nhớ về thăm Đền Quát

Ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có ngôi đền cổ thờ một danh tướng nhà Trần, người đã có công nhiều lần đục thủng thuyền giặc Nguyên Mông làm nên chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử. Đó là đền Quát, thờ danh tướng Yết Kiêu, Đệ nhất đô soái thuỷ quân đức thánh Trần triều...

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế (1242-1301), phụ thân là Phạm Hữu Hiệu, người Hạ Bì, còn gọi là làng Quát (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, Hải Dương). Thân mẫu Yết Kiêu là Vũ Thị Duyên, người làng Lôi Động, Thanh Hà, nay là làng Đồng Nổi, xã Tân An, Thanh Hà, Hải Dương. Sinh trưởng trong một gia đình ngư dân nghèo, 8 tuổi mồ côi cha, từ nhỏ, Phạm Hữu Thế đã phải lặn lội sông nước bắt cá tôm nuôi mẹ. Khi đất nước bị quân Nguyên Mông xâm lược, Yết Kiêu từ biệt mẹ tòng chinh và được tuyển vào thuỷ quân nhà Trần. Ông đã cùng quân dân nhà Trần làm nên nhiều chiến thắng, như chiến thắng Hàm Tử, Tây Kết, chiến thắng Bạch Đằng… Ông mất ngày 28 tháng Chạp năm Quý Mão (1303). Khi ông mất, Vua Trần đã ban sắc phong cho dân làng Hạ Bì lập đền thờ và suy tôn ông là Thành hoàng làng. Yết Kiêu còn được lập miếu, đền thờ ở nhiều nơi, nhưng lớn nhất vẫn là đền Quát. Về tên gọi đền Quát, người dân nơi đây kể rằng: trước kia, cứ đến hội đền, dân các làng chài khác về dự hội rất đông vui. Chính vì thế mới gọi là đền Quát (Quát trong từ bao quát).
Đền Quát đang được tiến hành trùng tu.
Đền Quát đang được tiến hành trùng tu.
Khuôn viên ngôi đền hiện nay toạ lạc ở vị trí rất đẹp, phía trước là dòng sông Đinh Đào, một khúc của sông Đò Đáy bao bọc ruộng đồng phù sa màu mỡ. Đây là gò đất cao, trải bằng phẳng, vốn là bến đò xưa, cũng chính là nơi chôn rau cắt rốn của danh tướng Yết Kiêu. Khúc sông trước mặt đền là nơi mà bao đời nay con cháu họ Phạm- hậu duệ của ông- thả lưới, quăng chài để mưu sinh. Khu di tích đền thờ Yết Kiêu bao gồm đền chính và bãi bơi. Đến lần trùng tu đời Nguyễn, đền chính được thiết kế gồm tiền tế 7 gian và hậu cung 3 gian. Giữa đền và bãi bơi có một hồ nước nhỏ rộng rất đẹp. Đền xây dựng bằng gạch, lợp ngói âm dương. Bên trong đền có rất nhiều đại tự, cuốn thư, đồ thờ, các sắc phong, những hình vẽ, chạm trổ. Đền chính đã thay đổi nhiều, còn bãi bơi thì ít thay đổi. Bãi bơi rộng tới 2000m2 dọc theo bờ sông, tại đây có đôi voi đá, ngựa đá và bệ ngự đặt kiệu Yết Kiêu và phu nhân mỗi khi có lễ hội. Khu di tích đền Quát đã được xếp hạng di tích Quốc gia năm 1998. Ở đền Quát bây giờ vẫn còn rất nhiều câu đối hay. Đặc biệt bên trong đền còn có tượng đôi trâu thần. Chuyện kể rằng, vào khoảng năm 15 tuổi, trong một lần đi gánh nước, Yết Kiêu thấy hai con trâu trắng húc nhau chí tử trên bờ sông. Một con nhỏ hơn nhưng hung dữ đánh sừng rất hiểm. Con còn lại rất khoẻ nhưng ra đòn chậm chạp. Ông nghĩ, nếu không can ắt có một con sẽ chết nên nhảy vào dùng đòn ống can hai con trâu ra. Chúng hoảng sợ bỏ chạy xuống sông rồi biến mất, để lại hai cái lông. Yết Kiêu nhanh tay nhặt được, đặt xuống nước thì thấy nước rẽ làm đôi. Ông đinh ninh đó là lông trâu thần, liền cầm lên và nuốt vào bụng. Từ đó, thân thể Yết Kiêu cường tráng phi thường, bơi lặn lâu như đi trên mặt đất... Ngoài tượng đôi trâu thần, trong đền thờ còn có nhiều hiện vật khác như voi chiến, ngựa chiến, cá thần, hạc thần v.v. Đặc biệt, bên phải tượng Yết Kiêu uy nghiêm còn an trí tượng công chúa nhà Nguyên tên gọi Ngọc Loan.

Lễ hội đền Quát tưởng nhớ Yết Kiêu xưa kia được tổ chức vào mùa xuân nhưng gần đây được chuyển sang mùa thu để cộng hưởng cùng với lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) tưởng niệm Trần Hưng Đạo, chủ soái của Yết Kiêu. Đây là những lễ hội quan trọng nhất của Hải Dương. Lễ hội đền Quát bao giờ cũng tổ chức lễ rước thuỷ và rước bộ như một nghi thức quan trọng nhất của phần lễ. Phần hội luôn luôn có cuộc thi bơi chải. Người tham gia thi bơi là những thanh niên khoẻ mạnh, được tuyển chọn rất kỹ từ những xóm chài. Các đội thuyền trước khi bơi đều phải tuân theo nghi lễ bắt buộc là vào dâng hương để xin mùa cá bội thu, nhân dân no ấm. Người bơi đều chít khăn, thắt lưng, tất cả đều mặc áo cổ vuông và khác màu để phân biệt các đội với nhau. Thuyền đua được thiết kế dạng thuyền rồng dài và hẹp có độ lướt cao. Đường đua là đoạn sông thẳng nhất, được cắm cây nêu gắn cờ đuôi nheo để đánh dấu đích đến. Khi người thi bơi nghe thấy một hồi, một tiếng trống, nghĩa là cuộc thi bắt đầu. Lễ hội đền Quát thể hiện tinh thần thượng võ cao đẹp của dân tộc. Nó có nét tương đồng với lễ cầu ngư của ngư dân duyên hải Trung bộ. Hiện nay, lễ hội đền Quát luôn thu hút đông đảo con cháu họ Phạm cũng như du khách xa gần đến thăm viếng.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sự và sự băng hoại khốc liệt của thời gian, nhiều hàng mục công trình đền Quát đã xuống cấp. Rất nhiều sắc phong quý giá từ thời phong kiến đã bị thực dân Pháp cướp đi mất. Vì thế, để bảo tồn những vốn quý còn lại, đền Quát đang được trùng tu trên diện tích rộng 40.000m2, như một công trình lịch sử văn hoá trọng điểm của Hải Dương cũng như cả nước…
Hải Dương

Hệ thống Đình-Chùa-Miếu-Nghè xã Quan Lạn

Hệ thống kiến trúc Tín ngưỡng- Tôn giáo này rất phong phú, gồm 4 loại hình, với những kiến trúc và mục đích rất khác nhau, đó là hệ thống Đình – Chùa – Miếu – Nghè tại Quan Lạn. Đình Quan Lạn nằm trong cụm di tích đình, chùa, miếu, nghè đã được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Cạnh đình là chùa Quan Lạn thờ Phật và bà chúa Liễu Hạnh.
Đình Quan Lạn được xây dựng từ thế kỷ 18 theo phong cách kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ, cửa hướng về đất liền. Đình được xây dựng theo kiểu chữ công gồm 5 gian 2 chái tiền đường, ba gian ống muống và 1 gian trái hậu cung. Đình có 32 cột cái và 26 cột quân bằng gỗ Mần lái (Trai lý) và gỗ Lim. Mái đình lợp bằng ngói vẩy, trên bờ nóc có hình lưỡng long chầu nguyệt. Đề tài trang trí chủ yếu ở đây là hình tượng rồng, phượng và hoa lá được thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cốn, cửa võng... Các đầu đao uốn cong khiến cho đình trông đồ sộ nhưng rất uyển chuyển và bay bổng. Các đầu bẩy đều chạm khắc hình rồng.
Miếu nghè Quan Lạn gồm ba ngôi miếu thờ ba anh em họ Phạm, đó là: Miếu Đức Ông thờ Phạm Công Chính, Miếu Sao ơn thờ Phạm Quý Công Và Miếu Đông Hồ thờ Phạm Thuần Dụng, là bộ tướng của Trần Khánh Dư đã chiến đấu dũng cảm và hi sinh trong trận Vân Đồn - Cửa Lục chống quân xâm lược Mông Nguyên. Đền thờ Trần Khánh Dư cách Đình Quan Lạn khoảng 1,5 km là một công trình kiến trúc nhỏ hình chữ Nhất, tương truyền được dựng lại trên phủ cũ của ông. Ngôi nghè bị đổ nát những năm 1960 và mới đựợc tu sửa năm 1995. Trong nghè còn có một pho tượng của Trần Khánh Dư tương truyền có từ thời Nguyễn và một số hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của ông.
Trần Khánh Dư là một vị danh tướng nhà Trần đã có công lớn trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép lại: ngày 30/12/1287 thái tử nhà Nguyên là A Thai cùng Ô Mã Nhi hợp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp rồi thuận dòng xuôi về Đông. Khi ấy thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Trần Khánh Dư đã củng cố lực lượng đánh địch. Tháng 12 âm lịch (1/1288), đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ không có lực lượng chiến đấu mạnh yểm trợ, chậm chạp tiến vào Vân Đồn hướng về Cửa Lục- Hạ Long, lọt vào trận địa của Nhân Huệ Vương. Thủy quân ta bố trí chặn địch từ Vân Đồn đến Cửa Lục. Đoàn thuyền lương của giặc mới đến sông Mang ở Vân Đồn đã bị ta tập kích. Trương Văn Hổ cố gắng tiến về phía đất liền nhưng đến biển Lục Thủy (Hòn Gai) thì thuyền quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ đại bại, đổ cả lương thảo xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu (Hải Nam)

Đình Lễ Hợp- Niềm tự hào của người dân Tam Đa

Đình Lễ Hợp thuộc thôn Lễ Hợp, xã Tam Đa (huyện Vĩnh Bảo), di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, nơi thờ tự vị tướng Phạm Đàm thời Trưng Vương và còn là một bảo tàng thu nhỏ, hàm chứa nhiều giá trị về lịch sử, truyền thống yêu nước và cách mạng qua các thời kỳ lịch sử của địa phương.
Theo truyền ngôn của dân làng, được ông Nguyễn Thành Tựu, thôn Lễ Hợp mô tả lại, đình Lễ Hợp xưa có mái đao cong duyên dáng, lát ván sàn ở tiền đường, do thời gian tồn tại lâu dài, bị xuống cấp nên vào năm Nhâm Tuất (1922) đời vua Khải Định thứ 6, đình được sửa chữa lại. Những di vật còn lưu giữ lại đình chủ yếu mang dấu ấn của phong cách nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ 20. Kiến trúc nội thất đặc sắc, nổi bật ở phần trang trí nghệ thuật qua các chi tiết, mảng chạm của kiến trúc gỗ tập trung ở gian tiền đường. Với phong cách trang trí theo từng lớp lang có bố cục từng đề tài, các bức chạm khắc mang dấu ấn điêu luyện của nghệ nhân y như “Phượng hàm thư”, “Lưỡng ngư chầu nguyệt”, “Rồng mây hội tụ”, “Nghê gảy đàn”.... tạo ra nhiều cảm xúc cho du khách. Nơi đây còn lưu giữ nhiều hiện vật là đồ thờ tự quý có niên đại từ thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19 như long đình, câu đối, đại tự... với nội dung phản ánh nét văn hoá, lễ hội của cư dân vùng lúa nước Bắc bộ. Bản thần tích còn ghi lại rõ ràng về nhân vật được thờ phụng tại đây, đó là Phạm Đàm, một trong những bộ tướng của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa năm 40-43. Nhân vật lịch sử này đã góp phần làm nên trang sử đầu tiên của truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước ở Hải Phòng ngay từ thế kỷ thứ nhất. Chính vì vậy, đình Lễ Hợp là một di sản văn hoá tiêu biểu được Nhà nước công nhận năm 1994.
Lễ hội đình Lễ Hợp hằng năm được nhân dân và chính quyền địa phương tổ chức vào ngày mồng 10-3 âm lịch để phát huy truyền thống sinh hoạt văn hoá và tưởng nhớ người anh hùng có công với quê hương, đất nước. Nhân dân thôn Lễ Hợp và các thôn trong xã thường làm các loại bánh dân tộc như bánh trôi nước trong dịp lễ hội. Vào dịp lễ hội, các gia đình quần tụ kể lại cho con cháu nghe lịch sử của vị thần Phạm Đàm về truyền thuyết Vua Hùng, về Hai Bà Trưng với niềm tự hào riêng của dân làng.

Sự tích: Thánh Uy Đô Đại vương và ngày chuyển táng

Với lịch sử 1000 năm, vùng đất Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay đã để lại vô số đình, đền, chùa với nhiều sự tích các vị thần được thờ phụng. Đa số, ngày nay chúng ta biết đến tiểu sử và công trạng các vị thần, thành hoàng qua các truyền thuyết, sự tích trong lịch sử. Thế nhưng, một bộ phận các thần tích, thần phả cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con người của vùng đất cổ kính này. Các bản thần tích, thần phả chúng tôi chép lại ở đây vừa là tài liệu nghiên cứu, vừa là các bản thần tích còn lưu lại tại các đình, đền, chùa đã được các học giả nghiên cứu Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch từ văn bản gốc bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Sự tích: Thánh Uy Đô Đại vương và ngày chuyển táng
Đến đời Trần cai trị đất nước, kế nối gồm 12 đời Vua, bấy giờ có ông họ Trần tên huý là Đức Huân, là bậc công thần tôn thất, bà vợ là Trương Thị Bình, hiệu là Thiện Trí Đức Linh phu nhân. Tiên tổ Trần Công, vốn là em cùng cha khác mẹ với Kim Cương Cao Dương công chúa... Ngày ấy bà tiên phi đến chơi làng Vũ Điện, huyện Nam Xang, bà nằm mơ gặp phải rắn thần, liền sợ hãi bỏ về kinh sư. Bà Hoàng hậu đi chơi ở phía Tây, đến rửa mặt ở hồ Ngọc, chợt gặp con trâu vàng đưa ngọc dâng lên. Tiên phi vội nhận lấy nuốt vào trong bụng, thế rồi mang thai. Đủ 14 tháng, bà sinh ra một bọc, đến giờ Sửu ngày mùng 2 tháng 2 năm Ất Sửu thì sinh ra đức Thánh ở Sùng Đức (phường Nhật Chiêu). Cung đức thánh sinh ra mặt rồng, mày hổ, thân rắn, đầu người, mắt có hai đồng tử, mũi cao, trán rộng, thân dài 5 thước, ứng hiệu Tôn Thánh Linh Lang, hiệu là Uy Đô Linh Lang.
Đến khi khôn lớn, ngài rất thông minh, lanh lợi, có đủ tài trí hơn người. Nhà vua rất vui mừng, cho đó là việc tốt lành, liền cho ngài cai trị ở trên rừng, dưới biển. Bấy giờ Uy Đô được phong làm Thượng tướng quân ở lộ Thiên Sách. Ngài là người tài kiêm văn võ, biết chăm nom cai quản dân chúng, đồng thời có nhiều mưu lược, anh hùng cái thế, hiểu biết hơn người, lại rất giỏi chính sự, xưa nay không ai sánh kịp. Vì thế, Ngài đã dẹp yên hết giặc giã bốn phương, thực hành giáo hoá khắp nơi, rồi được triều đình phong cho chức tước.
Đến ngày mùng 3 tháng Giêng năm Giáp Ngọ, bấy giờ vừa tròn hai sáu tuổi, ngài không nghĩ đến công danh, liền bỏ quan quy theo Phật. Qua 10 năm sau, ngài đắc đạo, liền đi giáo hoá khắp nơi, tất cả là 36 năm trời. Đến giờ Ngọ ngày mùng 8 tháng 8 năm Canh Tý, ngài viên tịch. Triều đình làm lễ ở cung Long Càn, đến giờ Tỵ ngày mùng 10 tháng Ba năm Đinh Hợi, làm lễ chuyển táng ở cánh đồng xứ Đống Mối, làng Thanh Cù, huyện Kim Động. Mộ đặt theo cách toạ Càn hướng Tốn, nhật nguyệt chiếu lâm. Những người hiểu biết đều đặt lễ tế ở bên đường, cúng cáo, đốt tiền giấy, mong ngài cứu độ vong linh. Có chỉ dụ của nhà vua nói rõ, trúc đã nảy măng mới, cho dựng đền thờ gọi là Trúc Lâm Trần Tam thánh công từ. Về sau những đệ tử của ngài trông nom thờ cúng nên uy đức của ngài càng thêm lớn lao, thiên hạ càng thêm tôn kính. Người đời gọi là Trần Linh Lang. Nhân dân ở hai xã Mạn Trù và An Xá đến giờ Thân ngày mùng 20 tháng Hai năm Giáp Thìn tổ chức đón rước Thánh vị về chùa làng. Do đó liền chọn ngày đó làm ngày tôn Hoàng đế lên ngôi để cai trị đất nước. Triều đình lại ban cho sắc phong, tước hiệu là: "Hiển linh thượng thanh khoát đạt cự thần, thịnh đức chi nhân phổ huệ dương, vụ dũng lược phấn chi cường cấn uy nghi phù tộ, dực vận trấn dinh vĩ công cao huân hậu, đức hồng ân bát trạch thông minh chính trực, Uy Linh Lang Đô Đại vương".
Thần phả: ghi chép về thần bản thổ quán Đình Nhự
Khảo sử sách ghi chép ở Nam Hải Lý về sự tích lạ của thần Bà Già (xưa viết là Nhự). Khoảng năm Ất Sửu, niên hiệu Khai Nguyên đời Đường (725), thứ sử Quảng Châu - Lư Anh là người khiêm tốn, kính cẩn, nhân từ, trung hậu, rất được lòng dân trăm họ mến yêu, khen là vị quan hiền tài. Trước đó, Ái Châu có loạn giặc Đậu Tang, trải qua mười năm với các chức quan châu quận chẳng thể nào khống chế được. Vua nhà Đường sai Nguyên Sở Khánh làm tướng đem binh đi đánh dẹp. Đảng giặc thua, châu quận trở lại ổn định. Vua nhà Đường bèn sai Lư Anh đảm nhiệm chức Đô hộ phủ xứ Nam Giao. Lư Anh người ở Phong Châu, lúc nhỏ có họ ở Tràng An, thi đỗ khoa Minh kinh bác học, nhiều lần dời đến Giang Tả, sau được bổ làm Quảng Châu phủ nhự, đến đấy nhân về làm quan có về thăm hỏi người thân thích trong làng, muốn bắt chức Tô Lịch người đời Tấn và Lý Tổ hai người thuở xưa. Một hôm đi chơi Bắc thành thấy cảnh một vùng đất vuông rộng rãi thoáng đãng bằng phẳng, cây to cỏ rậm rạp đáng yêu, chim muông cầm thú í ới, tiếng ríu ra ríu rít, gió thổi sóng gợn cảnh sắc đổi thay, một nhánh sông giăng bày ra xa tít tắp ngàn dặm, ngàn ngọn núi chẳng phải tầm thường, ngùi ngùi cảm xúc trong lòng bèn cùng các thuộc quan dạo ngắm cảnh cả ngày. Mặt trời xế chiều mới quay trở về. Hôm sau vời các bề tôi vào đến công đường họp, quần thần đều không biết vì cớ gì. Đến đó bàn bạc khen chê nhiều thứ khác nhau của sản vật núi non đẹp đẽ, cái gì cũng đủ đầy, hết thảy ngạc nhiên nói: - Chẳng rõ sứ quân có việc gì đây? Thấy rải chiếu đẹp rồi bày ra hương thơm và các vị ngon hiếm quý, tế dâng kính trọng người đã khuất, không trái phép tắc với đức tổ, khấn:
- Chúng tôi tình cờ tới, lễ vật bày tỏ vội vàng chưa được một tuần, xin thứ tội cho, thật là may mắn.
Anh cười mà rằng: "Ta có một lời, muốn cùng các quan một lòng, dám bày tiệc rượu cùng yến tiệc chung vui". Bọn chúng khoanh tay vâng lời. Anh nói: "Một người nhận ơn Vua, cả nhà hưởng lộc trời, đức chẳng phải không đủ. Nay ta nhận chức trấn thủ phía Nam, coi như gần trong gang tấc, cho nên muốn dựng nên một nhà lớn để mùng Một ngày Rằm có đất chầu về, khiến cho trăm họ biết cái điều chiêm ngưỡng, làm sáng tỏ đức của Vua, các ngươi cho là thế nào? Há không được sao?" Mọi người suy nghĩ về sự che chở tại đây rồi đều đứng dậy nói: "Ý của sứ quân, đó cũng là việc lớn, cùng chúng tôi không hẹn mà giống nhau, xin theo sự chỉ bảo của sứ quân". Anh cả mừng. Ngày hôm đó yến ẩm cho đến tối mới tan. Hôm sau, đốc thúc trai tráng phu phen xây dựng lớn làm thổ mộc, chẳng mấy ngày mà hoàn thành, bên trái có hành lang, bên phải có biệt thự, tiền đường ở sau, cực kì tráng lệ, là danh thắng một thời.
Lư Anh vui mừng bảo: "Ắt là có thần trợ giúp, vậy nên mới chóng được như vậy". Nhân đó cùng các thuộc quan ăn mừng, có đài ở sông soi bóng.... bèn thiết lập vị hiệu Hoàng Tôn hoàng đế rồi rước vào giữa nhà lớn phụng chầu, mở ra hội mừng suốt bảy ngày đêm. Bốn phương hàng triệu dân, dắt già cõng trẻ tới xem hội. Lư Anh cho là hội hiếm có lạ lùng bèn đặt tên nhà lớn là Khai Nguyên quán, lấy niên hiệu của Hoàng Tôn mà đặt tên vậy. Tự dựng bia ghi, dùng cờ biểu nhà Đường.
Công lao của Lý tiếp là lập tượng thần Thổ địa ở hậu đường để làm sáng tỏ cái đức giữ nước, bảo vệ dân. Một hôm nằm ngủ, mộng thấy một người diện mạo đoan trang, áo quần rực rỡ. Anh lấy làm lạ hỏi người đó. Đáp rằng: "Ta là thần khí mạch, cứu giúp đất đai, đội ơn ngài ý thức được cái đáng yêu nên giúp đỡ cho ơn trạch dày. Dẫu rằng muốn tìm để cám ơn, song vì việc chung ngăn trở. Nay nhân ông tới chầu vua, sớm lui cho nên được cùng ngài tương kiến cũng chẳng muộn vậy". Lư Anh muốn hỏi thêm họ tên của thần, bỗng không thấy đâu nữa, vừa lúc giật mình tỉnh dậy. Từ đó nhiều lần thêm hương khói thờ cúng linh nghiệm rực rỡ hơn, người trong thôn tuân theo, thờ cúng càng đông. Trăn trở mãi việc thay đổi tên thôn và tên quán. Về sau, năm tháng dài xa, quán trống không hư hỏng, phong tục dân chuộng về ma quỷ, còn lại miếu hoang, dân thôn vẫn đến cầu đảo hàng năm nên hương khói không bao giờ hết. Tục gọi là thần Khai Nguyên, cũng còn gọi là quán Đình Nhự.
Đến triều vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) có người tên Vương Thảo, thấy nền cũ của quán cỏ mọc tràn lan ra sân, cây cối rậm rạp, rêu xanh mấy lớp đầy trước mắt, thật đáng thương, bèn thuê mướn đinh phu trạm đẵn cây, phát sạch cỏ, lại lần nữa dựng lên Từ Vũ dùng để tiếp khách, trù tính vẽ, chọn lựa chạm khắc trên rường nhà đẹp hơn ngày trước, lại đổi là chùa An Dưỡng. Chùa thời ấy có tăng trụ trì hiệu là Thiền Tăng Nhạ. Khoảng ấy trở đi nổi tiếng ở đời vì lẽ con trai, con gái bốn phương lui tới như mây hợp, vì rằng đất danh lam cổ tích.
Trước đó, vua Mông Cổ muốn xâm chiếm bờ cõi nước ta bèn sai tướng sửa sang thành Đại La. Vua cho rằng chùa ấy là sự sống của nơi tế lễ vị thần nên đã dời đến Đông Bộ Đầu (nay là xã Phú Gia) tức nay là vườn hoa Thôn Bà Già.
Đời Trần Nhân Tông, niên hiệu Trùng Hưng năm đầu (1285) sắc phong là Khai Nguyên hiển ứng Đại vương. Niên hiệu Trùng Hưng thứ 4 sắc phong thêm hai chữ Long trụ.
Đời Trần Anh Tôn, niên hiệu Hưng Long thứ 21 (1314) sắc phong cho thần thêm hai chữ Trung vũ vì có công ngầm giúp vua cứu nước.
Thần phả: Thân mẫu Lý Công Uẩn (vị vua khai sáng triều Lý và lập đô Thăng Long)
Thần phả được phát hiện ở đình thôn Mạnh Tân, xã Thuỵ Lâm, huyện Đông Anh. Nội dung được dịch lại như sau:
Xưa, vua Hùng Vương là bậc thánh tổ đứng đầu núi rừng mở cơ đồ lớn hơn hai ngàn năm. Hùng Vương dựng nước. Núi xanh vạn dặm, dựng nên thành đô cung điện. Nước biếc một dòng, mở đường cho muôn vạn vật, cứu vớt dân sinh. Thống lĩnh 15 bộ, làm thuỷ tổ của Bách Việt vậy.
Cơ đồ Nam Việt thuở Hùng Vương
Một dải san hà có kỉ cương
Giữ nước nối ngôi truyền con cháu
Vạn năm hương khói tỏ cương thường
Lại nói, vào thời Hùng Vương, mạt vận, thế nước... chung. Trải đến triều Tấn, Tống, Tề, Lương phàm... năm. Đến nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần tạo dựng cơ đồ. Trước đó, ở đất Cổ Pháp, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc có gia đình họ Phạm, tên là Long. Vợ ông là Đặng Thị Quang. Ông bà sinh được một người con gái tên là Phạm Thị Tiên. Năm nàng 22 tuổi, nàng tuyệt mỹ vô song. Dung nhan khiến chim sa cá lặn. Sắc đẹp khiến trăng thẹn hoa sầu. Song lương duyên chưa bén, chưa chọn được người. Các bậc tài tử văn nhân đều không xứng với nàng. Bố mẹ nàng cười, nói rằng: "Thực không hiểu được! Nếu không phải là người đời thì tất phải là người trời ban xuống".
Bấy giờ nàng đến ở chùa Linh Ứng trong một hai năm. Còn cha mẹ không biết nàng ở đâu. Nàng ở chùa này để tâm niệm Phật, dốc sức trùng tu trang hoàng tượng Phật. Sau ba năm, vào một đêm nàng ngủ trong chùa. Đến giữa canh ba thì mơ thấy một vị đại thần đùa vui với mình. Từ đó mang thai. Thai ngày một lớn, không thể giấu được. Trẻ em, phụ nữ và người già đều cười cho là việc lạ. Bọn họ cật vấn tăng nhân sao nàng lại chửa. Nàng xấu hổ. Tối đến, bèn phải dời sang cư trú ở chùa Trang Tỳ Bào.
Năm Giáp Tuất, sinh ra một người con trai. Nàng xin với mọi người trong trang được ở lại chùa này để trông nom sửa sang chùa. Ngày đêm thắp hương thờ Phật. Trong tám, chín năm, con của nàng dần dần trưởng thành. Khi đó, hai mẹ con mới trở về đất Cổ Pháp, trú trong nhà Khánh Văn. Khánh Văn vốn là thiền sư, trong nhà có hai con chó đá đặt dưới chân giường. Chó tự dưng sủa lên ba tiếng dữ rồi ngoe nguẩy đuôi mừng khách. Người nhà thấy vậy rất sợ. Khánh Văn bói trong Kinh Dịch, ở quẻ Càn, hài Cửu Nhị, lời thoán nói rằng: "Có thánh nhân đến nhà vào lúc giờ Ngọ". Quả đúng như vậy. Thấy diện mạo của đứa trẻ (Lý Công Uẩn) khác lạ, mang khí tượng thiên tử thì Khánh Văn liền sai người nhà nuôi dưỡng chu đáo. Ngày ngày cho đi học ở chùa Ứng Tâm, Trang Cổ Pháp. Đứa trẻ học thông kinh sử, có chí anh hùng hơn hẳn mọi người, đức độ không ai sánh kịp.
Khi trưởng thành, Lý Công Uẩn phò tá Lê Đại Hành giúp ông thu phục đất nước, lên ngôi Vua. Bà họ Phạm nói với Lý Công Uẩn rằng: "Mẹ vốn là người sùng đạo Phật, là người chân tu". Lý Công Uẩn mới hỏi mẹ: "Cha của con là ai?" Bà trả lời rằng: "Trước đây, mẹ tu ở chùa Linh Ứng. Đêm đến nằm ngủ phái dưới trước án, mơ thấy một vị đại thần đùa vui với mẹ mà sinh ra con". Lý Công Uẩn cười, nói rằng: "Con quả là người mang khí tượng của bậc đế vương".
Bấy giờ bà họ Phạm đi qua khu Mạnh Tân, huyện Yên Phú, thấy nơi đây bị hại do thuỷ tai, chùa bị đổ nát. Bà động lòng, xin cùng với bản khi dốc lòng hiệp sức sửa sang ngôi chùa. Cảnh chùa từ chỗ đổ nát mà được khang trang. Khi đã hoàn thành, bà làm một bài thơ rằng:
Cảnh vật phong quang bởi sức ta
Trùng tu điện tượng quản đâu là
Danh truyền công đức lưu thiên cổ
Giúp dập dân đây hưởng vạn xuân
Công trình đẹp đẽ lớn lao. Nhân dân khu Mạnh Tân xin làm thần tử cho bà. Dẫu sao này ra sao cũng xin thờ phụng bà.
Sau khi bà trưng lập tài vật của khách thập phương làm chùa đã hoàn thành thì liền báo cho các sư, các thiền tăng trở về chùa khu Mạnh Tân mừng hội khánh thành trong suốt 10 ngày. Sau, bà lại đi chẩn tế cho dân khắp mọi nơi. Dáng bà nghiêm nghị, một tay cầm hoa sen, một tay cầm ấn chú, bước lên đàn cao ngồi. Các sư và tăng thống cùng nhau đọc kinh cầu phúc. Phụ lão và nhân dân khu Mạnh Tân rất ngưỡng mộ công đức của bà.
Khi đó, có một đám mây giống như dải lụa đỏ lơ lửng trên đỉnh đàn. Bỗng trời đất trở nên tối tăm. Ban ngày tối tựa đêm đen. Bà cưỡi mây bay về trời, tức bà đã hoá. Nhân dân cùng các sư, các tăng thống thấy vậy rất sợ hãi, liền làm biểu dâng lên triều đình. Vua sai các quan trở về khu Mạnh Tân làm lễ, ban cho bản khi sở tại được làm dân Hộ nhi phụng thờ bà, giữ làm thường lệ.
- Phong cho bà là Tiên phi nhân
- Gia tặng cho bà là Lý Quốc mẫu Hoàng thái hậu
- Sắc phục khi làm lễ cấm dùng màu đỏ
Lại nói, từ đó về sau linh ứng của bà tỏ rõ nên được gia phong mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần, cùng đất nước dài lâu giữ làm hằng thức.
Phụng khai ngày sinh, ngày hoá, các tiệc, tên huý phải cấm, kể dưới đây.
- Ngày sinh thần: 15 tháng Ba lấy làm chính lệ. Lễ dùng gồm cỗ chay, hoa quả, ca hát.
- Ngày hoá thần: Mùng 10 tháng Giêng, lấy làm chính lệ. Trên dùng cỗ chay, dưới dùng cỗ có thịt gà trống, thịt lợn đen, xôi, rượu, bánh trôi, bánh chưng.
- Tiệc ngày khánh hạ: Mùng 4 tháng Năm. Lễ dùng như trên.
- Tiệc ngày khánh hạ: 15 tháng Mười, lấy làm chính lệ. Đồ cúng tuỳ mua cho phù hợp.
- Tên huý phải cấm gồm 1 chữ Tiên, chuẩn cho khu Mạnh Tân phụng thờ bà.
Ngày lành, tháng chín năm Hồng Đức 3 (1472)
Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn Bính, phụng soạn bản chính.
Ngày lành tháng 10 năm Vĩnh Hựu thứ 7 hoàng triều (1714)
Quản giám bách thần. Tri diện Hùng Lĩnh thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền, phụng mệnh sao lại theo bản chính.
Ngày lành, tháng Tư nhuận năm Đồng Khánh 2 Hoàng triều (1887) bản thôn sao lại theo bản cũ.

Trích lược Hành Thiện Xã Chí


Xét thế Khoa – lục, thì làng ta phát Khoa từ khoảng niên hiệu Thông – nguyên Triều Lê (Triều Vua Cung Hoàng đế) (1522) cho đến Khoa Ất Mão niên hiệu Duy Tân thứ 9 (1915), nghĩa là không còn để lối thi hương, hội nữa.
Số trúng Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân và Tú tài, tổng cộng được 338, tựu trung có khoa trúng được 2 Tiến sĩ, lien khoa (khóa trước và khóa nối sau) trúng được 2 giải nguyên (tức là đỗ đầu cử nhân hay là thủ khoa) cũng có năm đỗ được cả giải nguyên (đỗ đầu), Á nguyên (thứ nhì) và thứ ba Cử nhân cùng một khoa. Có năm cha con, anh em, chú cháu, cùng trúng 1 khóa, ngạn ngữ có câu: “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện” nghĩa là nơi khoa giáp làng Hành Thiện đứng đầu Tỉnh Nam, không kém gì làng Cổ Am tỉnh Đông (Hải Dương) vậy.
Khai khoa cho làng ta là cụ Nguyễn Thiện Sĩ, về họ Nguyễn rồi các cụ trong các họ nối nhau khai khoa cho các họ như các cụ Đặng Minh Dương, Đặng Khắc Nhượng, Phạm Ngọc Thân, Tống Tâm Quang, Đỗ Khắc Thiêu, Lã Đinh Phùng, Đào Đắc Dư, Vũ Nguyên Trình, Đặng Quang Dư, Trần Vũ Giám, Đinh Nguyên Thiệu.

HỌ PHẠM: 
Phó Bảng
1
Á nguyên
1
Cử nhân
6
Tú tài
33
Tú tài phụ tịch
1

Cụ Phạm Ngọc Thân, Tam trường … 1619 – 1628, triều Lê Vĩnh Tôn.
- Phạm Đoan Du, - nt 1663-1671, triều Lê Cảnh Thọ.
- Phạm Duy Dương, - nt 1684, triều Lê Chính Hòa
- Phạm Liên, - nt –
- Phạm Doanh Nho, - nt 1691-1699
- Phạm Khánh, - nt 1691
- Phạm Đăng Toàn, 22t, Tú tài Khóa Nhâm Ngọ, 1702.
- Phạm Nguyễn Kỳ, 19t, Cử nhân Khóa Mậu Tý, 1708, Tổng trưởng.
- Phạm Khắc Du, 22t, Tú tài Khóa Tân Mão, 1714.
- Phạm Đoan Nha, 19t, Tú tài khóa 1735.
- Phạm Nguyên Liêu, 24t, Tú tài khóa Canh Ngọ 1750.
- Phạm Bình Triết, 28t, Tú tài khóa Bính Tý, 1756, Cảnh hưng.
- Phạm Quốc Cơ, 21t, Tú tài Khóa Nhâm Ngọ 1762, Cảnh hưng.
- Phạm Ngọc Trác, 15t, Tú tài Khóa Đinh Dậu 1777, Tổng trưởng.
- Phạm Xuân Lý 24t, Tú tài – nt –
- Phạm Quốc Hòe, 17t, Tú tài Khóa Canh Tý, 1780
- Phạm Nguyên Hang, 14t, Tú tài Khóa Quý Mão, 1783.
- Phạm Thời Nghi, 22t, Hạ khóa sinh 1801 Triều Tây Sơn.
- Phạm Ngọc Bích, 27t, - nt -.
- Phạm Ngọc Mạo, 22t, Cử nhân Khóa Giáp Ngọ 1834, Triều Minh Mạng.
- Phạm Ngọc Lương, 34t, Cử nhân Khoa Quý Mão, 1842, T.Thiệu trị.
- Phạm Quang Duyệt, 23t, 2 Khóa tú tài, 1847-1867, T.Tự Đức.
- Phạm Viết Ky, 20t, Tú tài Khóa Đinh Mùi, 1847, và 1867.
- Phạm Viết Vy, 39t, Tú tài Khóa Mậu Thân 1848, triều Tự Đức.
- Phạm Ngọc Chất, 23t, Tú tài 1870 (Cử nhân (Á nguyên) Tri phủ (khóa Giáp Tuất 1874 Tĩnh Gia).
- Phạm Đăng Liêu, 34t, Tam Trường Khóa Quý Dậu 1753 (Cảnh hưng).
- Cụ Phạm Ngọc Nhiễm, 18t, Cử nhân Khóa Giáp Tuất 1874, Kiểm tịch.
- Phạm Ngọc Chuyên, 39t, Tú tài Khóa Bính Tuất 1886.
- Phạm Đàn, 28t, Tú tài Khóa Mậu Tý, 1888.
- Phạm Duy Ân, 30t, 2 Khóa Tú tài 1891,1906.
- Phạm Đình Sắc, 24t, sau đổi tên là Phạm Ngọc Đoan, Cử nhân 1894, Phó Bảng 1901 Giáo thụ
- Phạm Ngọc Bình, 37t, Cử nhân Khóa Giáp Ngọ, 1894.
- Phạm Ngọc Lý, 23t Cử nhân Khóa Giáp Ngọ, 1894.
- Phạm Ngọc Đan, 27t, Tú tài KHóa Giáp Ngọ, 1894.
- Phạm Mạnh Doãn, 20t, Tú tài Khóa Canh Tý, 1900, triều Thành Thái.
- Phạm Ngọc Khôi, 20t, 2 khóa Tú tài 1903, 1906.
- Phạm Sỹ Đô, 34t, Tú tài 1909, Cung phụng.
- Phạm Ngọc Thụy, Tú tài 1900, Quán ở Nghệ An nhập tịch Hành Thiện.
Theo langhanhthien.com

Trích gia phả chúa Trịnh

Đời thứ: 9 - Nhánh T.1.1.2.3.2.2.2.3
Phái:Nam.    Con ông Trịnh Tạc và bà Thái-phi Vũ Ngọc Lễ.
Tên:Trịnh Căn
 Đức Tiên-thánh Chiêu-Tổ Khang-vương tên húy là Căn.
Sinh năm:1633 
 Sinh ngày 13 tháng 6 năm Quý-dậu (1633). Ngài là con thứ tư.
Mất năm:1709 
 Mất ngày 10 tháng 5, tôn-phong sách vàng là Khang-vương, tên thụy là Đông-Đoàn, miếu-hiệu là Chiêu-Tổ, tôn-lăng ở làng Lịch-thượng (huyện Yên-định).
Phối ngẫu: 
 Bà Hiền-phi họ Nguyễn tên húy là Ngọc-Phụng, tên thụy là Trang-Thân, người xã Quang-lãm (huyện Thanh-trì), bảo dưỡng đức Tiên-đức Tấn-quang-vương Trịnh-Bính. Mất ngày 13 tháng 3.

Bà Thục-phi họ Phạm tên húy là Ngọc-Quyển, tên thụy là Rượu-Mỹ, người làng Mỹ-cốt (huyện Lôi-Dương), con gái con Đô-đốc Lưu-quận-công Phạm Sĩ Kỳ. Sinh ra đức Lương-mục-vương Trịnh-Vịnh. Mất ngày 19 tháng 4. Lăng ở làng Phúc-hà (huyện Thụy-nguyên).

Bà Thuận-phi họ Ngô tên húy là Ngọc-Uyên, tên thụy là Rượu-Tĩnh, nguyên-quán ở xã Phượng-lịch (huyện Hoằng-hóa). Cháu ông Thân-Huân Tán-trị Công-thần hàm Thái-bảo tước Hòa-quận-công. Con gái ông Thiếu-bảo Kiêm-quận-công. Bảo-dưỡng đức Hy-Tổ Nhân-vương Trịnh-Cương: thời bấy giời gọi là đức Bảo-Mẫu. Mất ngày 12 tháng 11. Lăng ở làng Bảo-ngũ.

Năm 24 tuổi (1656), gia-phong chức Phó-đô-tướng, tước Phú-quận-công, mở dinh Tả-quốc, thống-lĩnh chư-tướng vào Nghệ-an đánh Nam-triều kiêm Trấn-thủ đất Nghệ-an, gia-thăng hàm Thái-phó. Năm 28 tuổi (1660), dựng được nhiều công to, được thăng Khâm-sai Tiết-chế thủy-bộ mọi dinh, kiêm-trưởng quyền-chính. Năm 42 tuổi (1674), công-vọng long-trọng tiến-phong chức Nguyên-súy, giữ chính nước, tước Định-nam-vương. Năm 50 tuổi (1682), đức Dương-vương Trịnh-Tạc mất, ngài lên nối nghiệp chúa. Năm 53 tuổi (1685), tiến-phong chức Đại-nguyên-súy Thống-quốc-chính Thượng-thánh Sư-phụ Thịnh-công Nhân-minh Uy-đoán Định-vương. Năm 77 tuổi (1709), ngày mất ngày 10 tháng 5.

Con giai:


  1. Đức Quốc-tể Lương-mục-công tôn-phong Lương-mục-vương Trịnh-Vịnh, là con trưởng.
  2. Quan Trưởng-tể Thượng-tướng-công Trịnh-Ruyên, sau đổi là Trịnh-Bách, là con thứ hai.
    Đức Lương-mục-vương mất, ông lĩnh chức Khâm-sai Tiết-chế, phong tước Mưu-quốc-công, mở phủ gọi là Lý-chính-phủ.
  3. Quan Thái-phó Đề-quận-công Trịnh-Lan là con út.


Con gái:


  1. Bà Trưởng-thượng-quận-chúa Trịnh-thị Ngọc-Lai, gả cho quan Đề-đốc Bân-quận-công Trịnh-Thập.
  2. Bà Thân-thượng-quận-chúa Trịnh-thị Ngọc-Bảo, gả cho quan Tham-đốc Trịnh-tương-hầu Lê-Thái.
  3. Bà Thượng-quận-chúa Trịnh-thị Ngọc-Lan, gả cho quan Thái-bảo Trung-quận-công Lê-thời-Liệu.