ĐÀN VIÊN KÝ ỨC LỤC
PHẠM ĐỨC DUẬT
Hội văn nghệ Thái Bình
Đàn viên ký ức lục là tập hồi ký gần một nghìn trang viết tay bằng chữ Nôm củ một tác gia Hán Nôm hồi đầu thế kỷ XX. Ông tên là Phạm Văn Thụ, tự Đàn Viên, hiệu Đông Bạch Phái, người làng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Năm Thành Thái thứ tư (1892), ông đậu Phó bảng, rồi làm tri huyện các huyện Thư Trì, Thần Khê, Duyên Hà, Phụ Dực, Tri phủ Kiến Xương, Tiên Hưng thuộc Thái Bình. Sau đó ông được thăng Tuần phủ Phúc Yên. Sau vụ Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn bị ám sát trước dinh thự Thái Bình ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Sửu (13-3-1913), Phạm Văn Thụ được thăng Tổng đốc Thái Bình. Tháng 8 – 1923, ông vào Huế làm Thượng thư Bộ Hộ dưới triều Khải Định. Tháng 6 năm 1926, Phạm Văn Thụ về hưu ở quê làng Bạch Sam.
Khi còn làm quan ông từng viết sách Thái Bình tỉnh thông chí, An Nam sơ học sử lược dịch,và đề tựa, viết lời bạt một số sách như Trung học Việt sử toát yếu, Việt sử tam tự tân ước toàn biên, Quốc triều luật học giản yếu... v.v
Sau khi hưu quan, ông để thời gian viết bản thảo Đàn Viên ký ức lục này. Tập bản thảo không chỉ viết về tiểu sử cá nhân, gia đình, quê hương tác giả, mà điều quan trọng là nhiều sự kiện chính trị xã hội của địa phương nơi ông làm quan được kể lại với tình cảm cởi mở, chân thành, làm rõ nhiều vấn đề lâu nay còn nghi hoặc.
Có lẽ rất ít tác gia Hán Nôm hồi đầu thế kỷ trước, có được tiểu sử cụ thể, tỉ mỉ như Phạm Văn Thụ tự thuật về mình trong Đàn Viên ký ức lục. Mở đầu ông viết “Ta sinh năm Bính Dần, ngày 18-5, hoàng hiệu Tự Đức năm thứ 19 (tức dương lịch 30-6-1866). Thuở bé mệnh danh là Phạm Văn Trúc, theo tục phối với tên thân huynh ta cho dễ nhận. Năm 21 tuổi, gặp kỳ Bính Tuất ân khoa, hoàng hiệu Đồng Khánh nguyên niên (1886), chưa kịp tục bộ, đội tên làng là Phạm Văn Viên, ứng thí trúng Tú tài. Cách khoa Mậu Tý (1888) đến khoa Tân Mão (1891), cải chính là Phạm Văn Thụ, thi trúng Cử nhân. Khoa hội Nhâm Thìn (1892) liền trúng Phó bảng. Đương buổi phong trào thay đổi, đúng câu thơ cổ:
Giang sơn phong cảnh còn nguyên đó,
Thành quách nhân dân đã khác rồi.
Chính khi ta ứng hạch, quán chỉ còn đề theo hạt tân thiết là Đạo Địch Lâm. Khi nộp quyển vào trường lại được gửi về tỉnh Hải Dương cũ. Đến khi thành mệnh Cử nhân, mới cải sáp sang tỉnh Hưng Yên.
Nước non vẫn nước non nhà,
Gò cây in dấu ông bà mở mang.
Chỉ đáng nực cười trong thời kỳ ngoài hai mươi tuổi mà cái huy hiệu ta, nào Khoá Trúc, nào Tú Viên, nào Cử Thụ, nào Bảng Thụ, thay hình đổi dạng đến đôi ba lần, an nhiên không lấy làm phiền, cũng chưa vượt khỏi ra ngoài không khí tập quán vậy. Ta vốn tính đã đa sầu, đa cảm, cuộc đời lại bán cựu bán tân, có dám đâu thừa nước mắt khóc người xưa, cũng học đòi ăn cơm mới nói chuyện cũ”.
Khi làm Tri phủ Kiến Xương, ông được chứng kiến vụ tập hợp nghĩa binh của sư chùa Lãng Đông tiến lên thị xã toan đánh chiếm các dinh thự của công sứ Davis và Tuần phủ Vương Hữu Bình. Ông nhận xét “hạt Kiến Xương là nơi phồn kịch, khó cai trị nhất tỉnh Thái Bình. Ta ở mới gần một năm, quan dân yên vui, không điệp đổi làm huyền ca, đương có cái cảm tình điền trù tử đệ. Bỗng đâu kỳ tháng một, năm Đinh Dậu (Thành Thái cửu niên, tức tây lịch 1897) nổi biến Mạc Thiên Binh.
Hết thẩy toàn kỳ, hại nhất là Hải Dương, Hải Phòng, vì có can đến tính mệnh người Tây. Vậy dân mắc phải một phan kỳ thảm. Phủ, huyện nào hoặc hạt dân tiềm khởi, hoặc Thiên Binh kinh quá, người thì cách, người thì phát vãng. Quan huyện Thuỷ Nguyên Nguyễn Ngọc Kiểm, quan phủ Kiến Thụy Phạm Du, tiến sĩ và bạn hương niên với ta vô tình mà phải tống tử tại đảo Côn Luân. Phúc tướng như cụ Đỗ Văn Tâm, tổng đốc Hải Dương, nửa đêm quan toàn quyền tiếp báo, tức thì đến tỉnh, đòi đem cụ ra pháp trường hành hình”.
Năm 1913, Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn bị ám sát bằng tạc đạn ở cửa dinh, Phạm Văn Thụ ghi: “Năm 1913, mùng 6 tháng 2 Quý Sửu, tỉnh Thái Bình phát sự tạc đạn, cụ tuần Hành Thiện Nguyễn Duy Hàn bị hại. Ta phải đổi về chịu lấy gánh nặng, chối từ không được. Thầy tớ cũ phần nhiều lo thay cho ta. Vì tạc đạn đã lâu chỉ thấy đồn, chưa ai biết rõ hình dạng nó thế nào. Đột nhiên, một tiếng thực như sấm dậy đất bằng, ai cũng choáng váng. Vậy mà ta khổ tâm đối phó, nhất ngôn nhất động, may trúng cơ nghi...”
Mùa nước năm ấy (Quý Sửu 1913), đê Phú Chử huyện Thư Trì bị vỡ, mấy huyện bị lụt, công sứ Perret tự tử. Sau nạn lụt lớn này, Phạm Văn Thụ làm bài thơ song thất lục bát gần một trăm câu để uý lạo đồng bào.
Vụ Pháp truất ngôi vua Thành Thái, khi đó ông đương quyền Tuần phủ. Một hôm phó sư Dupuy hỏi ông: “Không biết những khi phế lập lễ nghi như thế nào? Còn lúc định rước xuống thuyền, đem ngài sang Tây, ngộ ngài không chịu thì xử trí làm sao?”
Ông cảm động ứa nước mắt mà trả lời: “Đã sinh biến phế lập, còn có lễ nghi gì?...
Tôi trộm nghe đức Thành Thái sở dĩ sinh điên, cũng chỉ vì có thông minh mà vô sở dụng. Nhà nước muốn đem sang Tây tưởng nên dùng cách êm ả để ngài đỡ chứng uất... Rồi lại để ở chỗ đức Hàm Nghi, đãi lấy Vương lễ. Mà rước đức Hàm Nghi về chấp chính, thực có phúc cho nước Nam tôi”...
Tất nhiên, bọn quan cai trị Pháp chỉ nói lấy lòng quan lại nước ta vậy thôi, không khi nào chúng dám đưa vua Hàm Nghi về thay vua Thành Thái. Thế mà thân hào Thái Bình vẫn làm đơn, có hàng trăm chữ ký, xin rước vua Hàm Nghi về chấp chính. Một hôm ông và quyền án sát Trần Thiện Kế đến Hội Nam Phong, tại nhà cụ tuần Luật Trung đông đủ các cụ đại lão. Cụ Khâm Nhân Mục nói: “Chà chà! Thái Bình giỏi nhỉ. Xin rước đức Hàm Nghi về làm vua à?”
Cuối năm ấy đúng 30 tết, ông Phan Chu Trinh cùng ông Đinh Dụng Hưởng cưỡi ngựa ở huyện Mỹ Lộc sang chơi. Ông tiễn ông Đinh Dụng Hưởng về Ninh Bình, còn ông Phan Chu Trinh ở lại ăn tết với ông một tuần lễ. Đêm nào cũng nói chuyện đến khuya. Ông Phan nói: “Thời cục này, tất phải thi hành chính thể dân chủ mới tiến hoá được...”. Sau cụ Nguyễn Thượng Hiền lấy tình niên bảng cứ chủ nhật thường sang trò chuyện, nào là ông Phan Chu Trinh, ông Nguyễn Sinh Huy có tiếng chí sĩ cũng hay vãng lai giao du. Thứ nhất can hệ là cổ động rước đức Hàm Nghi. Vì thế nhà nước dùng cách ky mi (trói buộc-PĐD) cốt đem ta lên phủ Thống Sứ để tiện phòng thám những chốn ẩn vi của ta hành động”.
Về việc ông Hoàng Tăng Bí bị Pháp tình nghi, ông nói: “Ông Hoàng Tăng Bí đỗ trẻ, sẵn lòng nhiệt hiểu, cảm ngộ lời hiểu của quan toàn quyền, định đổi tư tưởng về đường thực nghiệp. Ông Hoàng đi khắp các nơi diễn thuyết lập hội buôn bán nội hoá, hiệu là Hội Đông Thành Xương... Nói cho phải, giá bắt lỗi ông Hoàng Tăng Bí vào luật “Khi trá quan tư thủ tài” (dối trá việc công việc tư để giữ tiền bạc của người khác – PĐD) thì đúng, chứ bắt vào luật “mưu phản” thì rất oan”.
Đàn Viên ký ức lục còn ta ta biết khá tường tận về việc hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật làm thủ lĩnh và việc thực dân Pháp đối phó với quan quân Đề Thám ở Yên Thế như thế nào.
Tháng 6-1926, sau nhiều lần đề nghị, Phạm Văn Thụ được nghỉ hưu. Tuy vậy mỗi khi có cuộc bạo động nào, các quan lại Pháp cũng thỉnh cầu hỏi ký kiến ông. Thí dụ, vụ nghĩa quân đánh huyện Phụ Dực và Vĩnh Bảo. Tri huyện Hoàng Gia Mô bị hạ sát. Mô là con Hoàng Mạnh Trí. Mô gọi Hoàng Trọng Phu là chú. Tính Mô kiêu ngạo và rất tàn nhẫn. Bọn Pháp cai trị định nghiêm trị dân Cổ Am, nhưng Phạm Văn Thụ can ngăn. Mặc dầu vậy, Thống sứ Robin vẫn cho ném bom làng Cổ An.
Mấy năm nghỉ hưu, bên cạnh việc thăm thân hữu đôi bên nội ngoại, phần nhiều ông giành thời gian viết tập hồi ức, công phu, tỉ mỉ, chân thực này. Bản thảo được cử nhân Bùi Lương, con rể cả ông phiên ra quốc ngữ. Toàn bộ bản quốc ngữ do Phạm Văn Thảo, con trai cả ông đóng thành mấy tập để gia đình giữ làm vật gia bảo.
Phạm Văn Thụ về hưu được hơn bốn năm, ngày 12 tháng 6 Canh Ngọ (7-7-1930) ông bị bệnh đột ngột rồi mất tại quê nhà, thọ 65 tuổi.
Đàn Viên ký ức lục là tập tư liệu rất quý. Ngoài việc phản ánh nhiều sự kiện chính trị quan trọng ở các tỉnh phía Bắc, ở triều đình Huế suốt hơn 30 năm Phạm Văn Thụ làm quan, nó còn cho chúng ta hiểu nhiều tập tục cả tốt và xấu của xã hội nông thôn phía Bắc nước ta thời kỳ thuộc Pháp. Tự nội dung tập tư liệu cũng cho chúng ta thấy tinh thần yêu nước của nhân dân và sĩ phu cùng thủ đoạn cai trị của hàng loạt quan lại Pháp và những tên Việt gian khoác áo quan lại những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.102-107
Nguồn tin: Viện Hán Nôm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét