Hội làng Châu Khê ~ Cội nguồn họ Phạm

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Hội làng Châu Khê


Làng Châu Khê có 2 điểm khác các làng xung quanh. 1- Làng nghề vàng bạc nổi tiếng cả nước với tuổi nghề 550 năm. 2- Phố Hàng Bạc ở Hà Nội từng là làng Châu Khê tại phố trong lịch sử và hiện tại. Ngày làng mở hội, không phải ngày sinh, ngày hoá của vị thần được dân làng thờ làm Thành hoàng làng.
Vài nét về làng Châu Khê:
Thăm đình làng Châu Khê (còn gọi là Châu Khê tại hương), xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, chúng tôi tìm đọc văn bia chữ Hán Nôm dựng ở khu sân đình. Văn bia “Trùng tuyên duyên khánh đường bi” dựng năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) nói về chuyện khắc lại tấm bia của Trần Nguyên Đán (Đại tư đồ quan bi) có nhắc đến hành trạng vị Chỉ huy sứ quân, Chu Tam Sương (nay viết Xương) người lập lên trang Chu Xá đời Lý (1009- 1225), sau này là làng Châu Khê,.Văn bia còn tả vẻ đẹp của di tích thắng cảnh Duyên khánh đường. Chúng tôi chú ý tới văn bia này bởi, văn bia chưa được quan tâm nghiên cứu, ngay tác giả sách Châu Khê thần tích lịch sử và phát triển, xuất bản tháng 5 năm 2009 cũng cho rằng: Chỉ tiếc là bia của Trần Nguyên Đán không còn. Chúng tôi còn được tiếp cận văn bản Châu Khê thần tích sự trạng viết chữ Hán Nôm, dày 46 trang, soạn năm 1572, tái bản năm 1736, địa phương sao chép năm Thành Thái 12 (1900), viết về danh tướng Phạm Sỹ thời Trần, được dân làng suy tôn làm Thành hoàng làng. Đọc bản dịch Châu Khê thần tích sự trạng do chuyên gia Hán Nôm, nhà thư pháp học Lê Xuân Hoà biên dịch. Người làng Châu Khê, tác giả bài thơ Ông đồ sáng tác năm 1936, Nhà giáo nhân dân Vũ Đình Liên chép tay. Nghe bậc cao niên kể về lễ hội làng thời trước cách mạng Tháng Tám 1945, nguyên nhân phát sinh nghề vàng bạc ở Châu Khê. Thăm chùa làng, nghe kể chuyện về quả chuông đồng lớn nhất vùng, về vị sư trụ trì giúp đỡ cơ sở Việt Minh trong những năm cam go thời 9 năm kháng chiến. Những tư liệu này đều liên quan đến lễ hội làng Châu Khê.
Theo thần phả, thời Trần làng Châu Khê có tên trang Chu Xá, huyện Đường An phủ Thượng Hồng. Thời Nguyễn, Châu Khê thuộc tổng Thị Tranh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Châu Khê có địa thế “huyệt chân long nổi lên uốn khúc hình con rắn. Thế đất như 2 con mắt rồng cùng mở… dân ở tựa vào thân rồng. Phía Nam ngựa hướng chiếu vào, phía Bắc phượng hoàng múa cánh, địa thế xung quanh bằng phẳng”. Tác giả viết thần tích Thành hoàng làng Châu Khê kết luận “quả là một quý địa”. Đó là cách nhìn của phong thuỷ học về những giá trị đất làng Châu Khê. Đứng ở cổng làng Châu Khê (cổng chữ Môn), 2 tầng, có biển ghi"Làng văn hoá Châu Khê" nhìn chếch về hướng Nam, mé bên kia sông Cửu An là đền thờ Phạm Ngũ Lão.
Nhân vật được thờ được ghi chép ở Bản khai sự tích thành hoàng làng và sách Châu Khê thần tích sự trạng. Văn bản châu Khê thần tích quy định, "Ngày thần sinh, mồng 1 tháng Giêng hành lễ, sau 1 ngày quét dọn cung đình, thổi xôi, trầu, rượu, ngày chính mổ trâu lợn, mở xướng ca, đánh cờ suốt 15 ngày". Quy định kiêng huý chữ Sỹ, Dực, Hổ. Quy định cấm mặc sắc phục màu vàng, màu tím. Đây là những quy định khác so với văn bản Bản khai sự tích Thành hoàng làng viết năm 1938. Sự khác nhau này có lẽ do khi các vị chánh hội, lý trưởng khai về phong tục thờ cúng Thành hoàng làng trước sắc lệnh của nhà vua lúc đó địa phương không còn duy trì kiêng khem cấm kị nữa.
Châu Khê là làng nghề có tuổi 550 năm (tính đến năm 2010). Làng Châu Khê, thời Vua Lê Nhân Tông nổi tiếng cả nước về nghề vàng bạc. Năm 1460, thượng thư Bộ Lại Lưu Xuân Tín, người làng Châu Khê được vua giao trọng trách đúc bạc nén làm tiền tệ tại kinh thành Thăng Long. Ông đã dành cho người làng đặc ân ấy, chuyển gia đình ở làng lên mua đất tại phường Đông Các, Đông Thọ, tổng Hữu Trác, huyện Thọ Xương, lập xưởng đúc bạc nén. Địa chỉ ấy, nay là số nhà 58, phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Tại kinh thành, người Châu Khê tổ chức thành phường giáp như ở quê và lập đình, gọi là “Châu Khê vọng sở”cùng thờ Thành hoàng và tổ nghề như ở quê. Người Châu Khê tại phố có phong tục gửi giỗ nên khi làng mở hội người Châu Khê tại phố tích cực về tham gia hội làng. Nghề nghiệp phát triển, người Châu Khê làm nghề ở nhiều phố phường khác, nhiều địa phương khác như, phố Phúc Tân Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Hải Dương. Nhiều người Châu Khê tại hương, tại phố cho rằng, số hộ ở quê và số hộ ở phố thường tương đương nhau. Theo số liệu thống kê năm 2008, làng có tới 97,32% gia đình làm nghề với ngót 800 tay thợ giỏi. Hàng có chất lượng bền đẹp, mẫu mã phong phú. Năm 2004, UBND tỉnh Hải Dương công nhận danh hiệu: Làng nghề thủ công vàng bạc Châu Khê. Trước đó, năm 1999 Châu Khê được công nhận danh hiệu Làng văn hoá, năm 2008 được công nhận danh hiệu Làng văn hoá sức khoẻ.
Châu Khê từng sản xuất vàng thỏi hàng mã đặt ở ban thờ đình làng, cung cấp cho cả vùng bày trong mâm lễ ngày các làng mở hội. Trên ban thờ ở đình làng, ở các gia đình, ở nhà thờ dòng họ Châu Khê hiện có vàng thỏi này nhưng nay không còn gia đình nào làm.
Nghề vàng bạc Châu Khê hình thành 3 nhóm chính, sản xuất, gia công; chế tác khuôn mẫu; mở cửa hàng.
Dân số Châu Khê năm 2008 là 1300 người/267 hộ. Diện tích tự nhiên 78,4 ha, trong đó có 63 ha đất canh tác. Châu Khê có ban đồng hương tại hương và ban đồng hương tại phố. Mục đích thành lập ban đồng hương là để hỗ trợ nhau cùng phát triển và cùng phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp. Ban đồng hương tại phố, còn gọi là "ban đại diện tại phố" ở phố Hàng Bạc, phố Phúc Tân Hà Nội, quận Kiến An thành phố Hải Phòng. Lãnh đạo thôn có Chi bộ đảng thành lập ngày 15.2.1947, có chính quyền (trưởng phó thôn), mặt trận và các đoàn thể như Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội người cao tuổi. Khi làng mở hội, chính quyền, đoàn thể vừa là bộ phận tham mưu, vừa là thành viên tích cực.
Hiện nay làng Châu Khê là 1 trong 7 thôn của xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang.
Đến Châu Khê có 3 lối đi chính, đi theo Quốc lộ số 5, đến ngã tư Quán Gỏi, rẽ về phía Nam vào cầu Sặt, theo quốc lộ 38, đến gần Cống Chanh (ngã ba Cống Chanh) thì rẽ trái. Bám theo đường đê sông Cửu An, đi qua thôn Chanh Trong, chừng 700 mét đến cổng chính, thường gọi là Cổng Bến. Cổng ở ngay dưới chân đê, kiến trúc 2 tầng, kiểu chữ Môn có biển ghi "Làng văn hoá Châu Khê - 1998". Đất làng nằm sát đê sông Cửu An. Vào làng Châu Khê qua cổng xây hình chữ Môn hoặc đi thêm 1 đoạn qua nghè, lăng miếu thờ Phạm Sỹ thì rẽ trái, đi theo đường làng qua chùa làng có tên chữ là Sùng Ân tự. Đi qua chùa 1 đoạn đường là đến đình làng. Còn lối đi nữa là từ ngã ba đoạn đường quốc lộ 39A (điểm phố Chương Xá) rẽ vào quốc lộ 38, đi qua ngã tư thị tứ huyện lỵ Ân Thi, đến Cống Chanh, đi thêm độ 50 m thì rẽ phải, đường trải nhựa, mặt bằng phẳng. Du khách có thể đi đường 20A, đến Phố Phủ (Phủ Cũ), rẽ vào đường 194, lối vào làng Mộ Trạch. Qua làng Mộ Trạch đến đầu làng Mới, thuộc Xã Thúc Kháng, rẽ phải vào thôn Ngọc Cục, đi tiếp qua trụ sở UBND xã Thúc Kháng, đi tiếp qua thôn Lương Ngọc. Bám theo đường đê (đã trải nhựa), qua làng Lương Ngọc, đến làng Châu Khê.


Di tích lịch sử.
Đình làng Châu Khê có tên chữ là Sỹ công Đại vương từ, ngự trên trên mảnh đất ở trước làng, diện tích 2118m2. Thế đất cao rộng, khởi dựng từ cuối thế kỷ XIII (1290), đã qua nhiều lần trùng tu, năm bảo Đại 16 (1941) có đợt trùng tu lớn. Đình có cổng tam quan, cổng ngách, sân lát gạch đỏ, tường bao 3 mặt. Trước nhà tiền đình xây 2 nhà giải vũ, diện tích 150,2m2. Đình có kiến trúc hình chữ Đinh, nhà tiền tế 5 gian rộng 207,48m2, nhà hậu cung 61,2m2. Bia đá, ngựa đá (niên đại thời Lê, thời Nguyễn) ở khu sân đình gần cổng tam quan. Trong khuôn viên đình có cây cảnh, cây ăn quả và vườn hoa. Mái đình lợp ngói vẩy cá, nóc đắp rồng kìm, đắp lưỡng long chầu nhật. Tiền bái có ban thờ đặt hương án, bát hương, cây nến, mâm bồng, bàn đặt lễ vật, hoành phi câu đối chữ Hán Nôm. Hậu cung có bệ thờ, hương án, bát hương, đỉnh đồng, tượng Phạm Sỹ, ngai thờ, hạc, hoành phi, câu đối, bát bửu, long đình, kiệu bát cống, cờ lọng, tán, quạt, tranh Phạm Sỹ, tranh Trần Hưng Đạo Đại Vương, tranh Chu Tam Sương. Những đồ thờ này được bày ở vị trí thích hợp, thể hiện tính thiêng, tính mỹ thuật. Hậu cung còn đặt ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các liệt sỹ làng Châu Khê.
Nghè Châu Khê hiện nay không còn nhưng theo Bản khai sự tích thành hoàng làng thì nghè được Phạm Sỹ cho tiền làm. Đình sau này mới làm. Nghè kiến trúc hình chữ Nhị gồm 7 gian chính, ba gian hậu cung, có cổng, giếng nước. Nghè tồn tại đến thập niên 70 của thế kỷ XX. Trong suốt thời gian tồn tại nghè được sử dụng làm trường học, nghè là "điểm đến" của hành trình đám rước ngày hội làng.


Chùa Châu Khê được tạo dựng ngay khi có Chu Xá trang, thế kỷ XII, toạ lạc trên khu đất cao cánh đồng Cửa Hàng. Vào lúc cuối đời Lý, đầu đời Trần chùa được chuyển về địa điểm hiện nay. Đất có địa thế hình đoá sen nên đặt tên chùa là Liên hoa tự. Đến đời Lê (khoảng năm 1692), đổi tên thành Sùng ân tự. Chùa có 36 gian, diện tích đất 1.320m2, trong đó diện tích xây nhà thờ tự rộng 657,6m2. Tượng Phật uy nghi, cổng tam quan treo quả chuông đồng nặng 1300kg. Tiếng chuông chùa Châu Khê đã đi vào tâm khảm mỗi người dân thời đó và hình thành nên câu ca:“Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu” (chuông làng Châu Khê, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau). Quả chuông này nhân dân Châu Khê đã tự tháo dỡ ủng hộ kháng chiến đúc vũ khí đánh giặc thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Chùa Sùng ân tự còn là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng của vùng. Cuối năm 2001, đúc lại quả chuông nặng 800 kg, cao1,7m do người châu Khê tại hương tại phố và khách thập phương góp của góp công. Hàng năm chùa đón hàng vạn lượt người tới chiêm ngưỡng, lễ bái. Ngày hội làng, nhân dân, đoàn đại biểu cấp trên (đoàn đại biểu Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Bình Giang, đoàn đại biểu Hội kim hoàn TƯ, đoàn đại biểu Hội kim hoàn thành phố Hà Nội) và du khách sau khi lễ ở đình thường đến lễ chùa. Chùa (tên chữ là Sùng ân tự), cụm di tích này được cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1991. Di tích lăng miếu thờ Phạm Sỹ kiến trúc cổ kính. Các di tích như, nghè, văn chỉ, giếng làng (gồm: giếng cổng Đông, giếng Nghè), nhà cầu ba, nhà các giáp (gồm: Giáp Nhất, giáp Nhì, giáp Trung, giáp Đông, giáp Tây Xuyên), luỹ Gia tô, gò cái cân, cổng làng (gồm: cổng Đông, cổng Bến, cổng Nghè, cổng Tây Xuyên) đã từng là niềm tự hào của người Châu Khê. Thật tiếc, nay còn 2 giếng làng và 1 nhà giáp đã xuống cấp.

Tiểu sử nhân vật được thờ ở 2 tài liệu ghi: "Ngài là nhân thần, họ Phạm, tên Sỹ. Cha là Phạm Tuyên, quê ở động Lôi Nham, Thanh Hoá vốn con nhà thi thư lễ nghĩa, có vợ là bà Trương Thị Đoan, sinh 1 con gái. Vợ mất khi con gái 4 tuổi. Sau ba, bốn năm, ông Tuyên lấy bà kế thất, tên là Nguyễn Thị Phương, quê ở Hậu Trạch, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương. Năm 41 tuổi, ông Tuyên đỗ tam trường (đỗ Tú tài),năm 43 tuổi nhận chức Giáo thụ Kinh Môn, 3 năm sau thăng chức Huyện lệnh huyện Phù Vân đạo Sơn Nam. Lúc ông Tuyên ngoài 50 tuổi, bà Phương ngoài 40 tuổi vẫn chưa sinh được con. Ông Tuyên dâng sớ xin về chí sỹ làm nghề dạy học, làm thuốc giúp dân ở quê Thanh Hoá và Hậu Trạch Hải Dương. Ông bà đến lễ cầu tự ở chùa Quang Minh ở Hậu Trạch. Sau 100 ngày bà có thai, mang thai 13 tháng, sinh hạ 1 nam nhi vào giờ Tý ngày mồng 1 tháng Giêng. Bảy ngày mới mở mắt, mắt sáng như sao trời lóng lánh, tiếng nói như sấm vang. Được 1 năm biết nói, 5 tuổi biết âm luật thơ, 14 tuổi, bách gia chư tử không gì là không biết. Năm 16 tuổi cha mẹ đều mất, lo tang cha mẹ chu đáo. Lúc này gia cảnh nghèo “ruộng đất sạch không, bốn vách gió lùa” nhưng ông chỉ sớm hôm đèn sách. Nghĩ về gia cảnh, ông quyết chí tìm nơi luyện tập. Đến trang Chu Xá, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, thấy nơi đây là đất chân long tú khí, được nhà chùa và nhân dân tiếp đón chân tình, làm trường, mời làm thầy dạy chữ cho bọn trẻ. Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù Ủng, làm quan triều Trần đến chức Thái bảo về quê họp sỹ tử để tập văn chương. Phạm Sỹ sang nộp quyển văn, Phạm Ngũ Lão xem văn thấy văn quảng bác, uyên thâm, kỳ dị vô định. Từ đó Phạm Ngũ Lão coi ông Sỹ như anh em thủ túc chí thân, sớm hôm không rời nhau. Ông được tiến cử gặp Hưng Đạo Vương, gặp Vua Trần Thái Tông. Qua thử tài văn chương võ nghệ, ông hơn hẳn Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Ích Tắc. Ông được Vua phong chức Tham nghị, sau thăng chức Tham tri Bộ Lễ, chức Đô đài ngự sử. Ông được Vua giao nhiệm vụ tuần thú các đạo phủ huyện, giúp người già nuôi người khó khăn. Việc làm của ông, nhân dân đều chịu ơn đức độ. Với quê Thanh Hoá, ông sửa sang nhà thờ, viếng thăm mồ mả, biếu chị gái và họ hàng vàng bạc làm vốn. Ông về Chu Xá, mở yến tiệc mời các cụ phụ lão đến dự. Ông sửa sang trường sở làm hành cung, biếu vàng gia thần, dân làng làm vốn. Năm Vua Nhân Tông lên ngôi, ông được phong chức Thái bảo tướng quân, tước Dực hổ hầu, thống lĩnh đạo Hải Dương, Trần Khánh Dư làm phó tướng, Trương Văn Hổ làm Thống lĩnh hậu quân. Mặt trận do ông chỉ huy có công lớn giúp Vua Trần, giúp Hưng Đạo Đại Vương thắng trận Đông Bộ Đầu, bắt sống Ô Mã Nhi, chém Nguyễn Bá Linh. Thắng trận, ông được Vua giao về Hải Dương chiêu dụ dân phiêu tán, chẩn cấp tiền gạo để dân an cư lạc nghiệp. Ông về trang Chu Xá phát chẩn 5000 quan tiền, 5000 phương thóc, cho dân. Mở hội yến 3 ngày, cấp 10 hốt vàng làm cung quán. Thụ yến xong, lúc ấy là ngày 1 tháng Chạp, ông hoá. Nơi hoá mối xông thành mộ. Ông được triều đình về làm tang lễ, cấp 3000 quan tiền xây lăng mộ, dựng nơi thờ cúng. Nơi ấy nay là khu lăng mộ. Đời Lê, ông phù hộ Vua Lê dẹp tan quân tướng nhà Mạc, rước Vua về Kinh, lập nên nhà Lê Trung Hưng. Ông được các triều Vua ban tặng nhiều mỹ tự. Từ năm 1710 đến năm 1924, ông được ban tặng 14 sắc phong. Làng Châu Khê suy tôn ông là Thành hoàng làng. Đình làng thờ Phạm Sỹ và Phạm Ngũ Lão, bản khai sự tích Thành hoàng làng còn ghi ở mục E về nhân vật được thờ"đồng thời với Phạm Sỹ có Phạm Ngũ Lão, đức Phạm Ngũ Lão hiện làng Phù Ủng có thờ".

Lễ hội làng:
Ở những địa phương khác, lễ hội làng (ngày làng vào đám) với những quy định về nghi thức lễ, những trò chơi... thường được ghi vào hương ước. Theo các bậc cao niên tại quê, tại phố trước đây Châu Khê có hương ước nhưng đã thất lạc. Nghi lễ được ghi trong “Bản khai sự tích Thành hoàng làng” của chính quyền xã Châu Khê (nay là thôn châu Khê) năm 1938 thì Châu Khê có 7 ngày tế lễ trong năm. Ngày mồng 1 tháng Giêng (ngày thánh đản), ngày mồng 1 tháng Chạp (ngày thánh hoá), ngày 7 tháng Giêng (tế lễ mùa Xuân),ngày 17 tháng 7 (tế lễ mùa Thu), ngày 2 tháng 3 (tế lễ hạ điền), ngày17 tháng 7 (tế lễ thượng điền), ngày 18 đến 21 tháng giêng (tế lễ kỳ phúc), ngày 26 tháng giêng (tế lễ kỳ yên). Đồ lễ (vật lễ) dùng lợn, gà, xôi, oản, giầu (trầu), rượu. Đồ lễ do người đăng cai chuẩn bị. Khi lễ xong thì những người dự lễ thụ lộc (kiến viên ẩm nhẫm).
Về thành phần, tiêu chuẩn dự lễ mục VI, VII trong bản khai sự tích thành hoàng làng ghi: Cả làng đều được dự tế lễ. trong ngày tế lễ, trong khi hành lễ, những người dự lễ phải ăn chay, tắm gội. Không có việc riêng cho giai tân gái tân hay người có tuổi vợ chồng song toàn. Trang phục khi tế lễ, mục VIII ghi: Lúc tế lễ thì mỗi người dự lễ đội mũ, mặc áo thụng lam.
Lễ rước ở phố Hàng Bạc, trước cách mạng tháng 8/1945 thường rước từ nhà số 42 hàng Bạc (nhà ty quan) sang nhà 58 hàng Bạc (nhà giao nhận sản phẩm).
Khi phục hồi lễ hội (năm 1991), chính quyền và ban quản lý di tích căn cứ vào trí nhớ của những người đã từng tham gia, đã từng xem hội, tham khảo lễ hội các địa phương lân cận và hướng dẫn của ngành văn hoá, sau đó xây dựng quy định về lễ hội và được đưa vào quy ước làng văn hoá Châu Khê, tại 3 điều: 4, 5, 7. Điều 4, điều 7 quy định độ tuổi tham gia lễ hội (có phần cứng và phần mềm), "Nam nữ của làng (nam từ 18, nữ từ 16) trở lên đều có bổn phận tham gia vào các ban của làng để cùng chăm lo việc lễ hội (phần cứng).Điều 7 ghi: Tất cả nam 18 tuổi, nữ 16 tuổi đến 70 tuổi (các cụ trên 70 tuổi được BTC trân trọng mời là đại biểu danh dự của lễ hội) và một số thiếu niên có năng khiếu đều được phân công vào các tiểu ban của lễ hội, kể cả những người đi làm ăn xa về, cần tự nguyện gặp ban tổ chức nhận việc hội coi như bổn phận và trách nhiệm tất nhiên, nếu không nhận việc hội coi như bị hẫng hụt điều gì đó trân trọng nhất trong một năm làm ăn(phần mềm). Điều 5 nêu tên gọi lễ hội, ngày tổ chức lễ hội, quy định về cơ cấu trưởng phó ban tổ chức lễ hội. Tên gọi lễ hội: Lễ hội Xuân- giỗ tổ nghề kim hoàn làng Châu Khê, có năm ghi: Lễ hội Xuân- giỗ tổ nghề vàng bạc Châu Khê. Ngày tổ chức lễ hội "vào ngày 19 tháng giêng hàng năm". Ngày 1 tháng Chạp hàng năm (ngày hoá của Thành hoàng làng) được chọn là ngày thành lập ban tổ chức lễ hội. Cơ cấu BTC gồm trưởng phó ban và 8 tiểu ban: 1 trưởng, 5 phó (trưởng thôn, cấp uỷ, ban quản lý di tích, mặt trận tổ quốc thôn, người cao tuổi thôn). Có 8 tiểu ban gồm: Tổ tế nam, tuổi từ 45 trở lên (11-13 người); tổ dâng hương, gồm các nữ trung 35- 45 tuổi, (25 người); tổ dâng hoa, gồm các cháu thiếu niên 12-15 tuổi (20 cháu); tổ kiệu bát cống, long đình, nam 18-45 tuổi (30 người); tổ cờ lọng, bát bửu, nữ 18-60 tuổi (32 người); tổ rồng sư tử, nam (18 người); tổ tiếp tân, khánh tiết (20 người). Ban tổ chức xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội, báo cáo, đề nghị chính quyền các cấp cho phép kế hoạch này được triển khai. Những năm chưa có quy chế lễ hội của Nhà nước, thường có văn bản đề nghị (xin phép) mở lễ hội, kèm văn bản kế hoạch mở hội gửi chính quyền, ngành Văn hoá Thông tin. Câu cuối trong điều 5 còn ghi: Mọi người dân dù sinh sống ở nhà hay đi làm ăn xa đều trở về và có bổn phận tham gia công việc của làng do ban tổ chức phân công. Điều 7 quy định về quy mô lễ hội hàng năm, nhiệm vụ của ban tổ chức, quy định về phần lễ, phần hội. Quy mô lễ hội, điều 7 ghi: Những năm thường, hội mở nội bộ, những năm chẵn hội mở lớn ngày 17-18-19. Thành phần ban tổ chức lễ hội có đại diện tại hương tại phố. Quy ước nêu rõ, tại hương chủ trì, tại phố hưởng ứng. Ban tổ chức làm việc theo nguyên tắc, cấp uỷ lãnh đạo, chính quyền điều hành, ban quản lý lập kế hoạch, MTTQ thôn, hội người cao tuổi thôn cùng đôn đốc thực hiện. Trung tâm tổ chức lễ hội tại đình làng.
Mục đích, yêu cầu của lễ hội: Đảm bảo trang nghiêm, cội nguồn, dân trí lành mạnh, tiết kiệm, an toàn, không ảnh hưởng đến sản xuất. Cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan, cờ bạc, phân bì ngôi thứ gây mất đoàn kết xóm làng. Lực lượng nòng cốt của lễ hội, điều 7 ghi: Hội làng lấy đội tế nam, đội trống, đội kiệu long đình, đội dâng hương dâng hoa, đội cờ lọng, bát bửu, đội rồng, sư tử làm nòng cốt. Phần hội có các trò vui chơi giải trí như, cờ tướng, bóng đá, cầu lông, dưỡng sinh (thể dục), chọi gà, chạy việt dã. Văn bản Quy ước làng Châu Khê chưa đưa hoạt động văn nghệ nhân ngày hội làng nhưng thực tế mỗi khi làng mở hội đều có chương trình văn nghệ, do lực lượng địa phương hoặc mời đoàn văn công, đội văn nghệ ở các địa phương khác biểu diễn, giao lưu, phục vụ hội, phục vụ nhân dân không thu tiền vé. Trong văn bản Thần tích có ghi "xướng ca, đánh cờ 15 ngày".Thể thức hát xướng ca, đánh cờ còn rất ít người nhớ. Ông Lê Xuân Thọ, năm nay 85 tuổi (sinh năm 1924),hiện ở 42 Tam Giang, thành phố Hải Dương kể, vào khoảng năm 1942, 1943, 1944 ông là người châu Khê tại phố về quê xem hội được các cụ cho đánh trống tế, dân làng ngày đó ra đình xem tế đông lắm. Thể thao hiện nay có tổ chức thi đấu bóng đá, cầu lông, kéo co, chọi gà và trình diễn của câu lạc bộ dưỡng sinh. Bậc cao niên trong làng (thế hệ sinh trước, sau năm 1900) còn kể chuyện, thời trước Cách mạng tháng 8/1945, Châu Khê tổ chức thi luộc gà tại sân đình, thi trồng cây chuối dưới nước. Nhiều năm tổ chức hát trống quân bên bờ sông Cửu An giao lưu với làng Phù Ủng, huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên. Điều 7 còn quy định về phần lễ, phần hội. Phần lễ: Các dòng, chi họ, quý khách vào lễ dâng hương. Phần hội: Có mít tinh tưởng niệm trọng thể đọc chúc văn, cùng ôn cố tri ân nhớ về cội nguồn, nâng cao dân trí xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuỳ theo điều kiện từng năm (tổ chức) hội thi giới thiệu làng nghề kim hoàn, thăm quan công trình chuyển dịch cải tạo vườn tạp, sản xuất chăn nuôi dịch vụ, làm kinh tế giỏi với du khách. Tổ chức thi đấu bóng đá.
Đến dự và quan sát lễ hội làng Châu Khê năm 2009, năm 2010, chúng tôi thấy, ngày 18 có lễ cáo yết, chuẩn bị đồ rước, tổ chức tế thần (địa phương mời đội tế làng Ngọc Cục, 1 làng thuộc xã Thúc Kháng). Có nhiều đoàn, cá nhân đến lễ, đặt lễ ở ban thờ trước hiên nhà tiền bái, trong nhà tiền bái. Lễ cá nhân ít, đoàn lễ nhiều. Đoàn nhiều tới hai, ba mươi người, đoàn ít cũng năm, bảy người. Đoàn lễ với trang phục chỉnh tề, đi theo trật tự. Mỗi đoàn lễ thường có mâm lễ vật do 1 người đội trên đầu. Mâm lễ vật gồm xôi, gà, quả, bánh, giấy tiền, hương, bia hộp, chai rượu nút lá chuối... (Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, chuẩn bị cho lễ hội, nhiều gia đình Châu Khê làm bánh xu xê, ruột mầu vàng, làm bằng bột lọc trộn với nước cốt quả dành dành, lá mảnh cộng, nhân bằng đậu xanh, gói lá chuối, hấp chín). Đoàn đi có hàng lối từ nơi xuất phát (từ 1 gia đình trong làng hoặc từ điểm dừng xe ô tô của đoàn lễ) tới ban thờ ở sân đình. Ban thờ đặt tại điểm gian giữa sân đình giáp với hiên đình. Ban thờ gồm: Phông vải mầu xanh, khẩu hiệu, 2 lọng che, ảnh Thành hoàng làng, bệ thờ tam cấp phủ vải đỏ, lư đồng, cúp hội làng Châu Khê, chậu cây sinh vật cảnh, lẵng và bình hoa tươi. Bên trên có khẩu hiệu "Lễ hội Xuân, giỗ tổ làng nghề vàng bạc Châu Khê, 19 tháng Giêng Kỷ Sửu 2009".
Ngày lễ chính, 19 tháng Giêng. Ngay từ sáng sớm, các đoàn lễ đến lễ đông hơn ngày 18. Đội tế nam của làng thực hiện nghi thức tế thành hoàng trong nhà tiền bái. Khai tế lúc 7 giờ 45 phút, đội trống, đội kiệu long đình, đội dâng hương dâng hoa, đội cờ lọng, bát bửu, đội rồng, sư tử đã chuẩn bị sẵn sàng tham gia lễ rước. Trước khi rước kiệu, tuyên bố khai lễ. 9 giờ 34 phút, khai lễ có chào cờ, hát quốc ca, giới thiệu đại biểu, trưởng thôn đọc lời chúc mừng khai mạc lễ hội, trưởng ban quản lý di tích đọc chúc văn. 10 giờ 5 phút, thực hiện nghi thức rước. Ban tổ chức công bố đội hình rước, phát lệnh rước. Đi đầu đoàn rước là đội múa lân, thứ tự tiếp theo học sinh, đội nhạc, đội cờ, lọng, kiệu nước (?), kiệu bát cống đặt tủ mỹ nghệ kim hoàn, đội chấp kích, đội tế nam (đội tế thôn Châu Khê, đội tế thôn Ngọc Cục), đội tế nữ, dân làng và khách thập phương. Đoàn rước từ sân đình đi qua cổng tam quan, vòng về giếng làng, (trước cách mạng đoàn rước đi thẳng đến nghè, làm lễ rồi quay lại đường cũ, đến ngã 3) rẽ về cổng chính làng, lên đê đi về hướng lăng mộ Phạm Sỹ. Nghỉ ở lăng mộ Phạm Sỹ, đoàn tế vào thắp hương. Thắp hương xong, đoàn rước tiếp tục hành trình rồi rẽ vào đường đến chùa Sùng Ân tự. Qua cổng chùa, trở về đình làng. Về tới đình làng lúc 10 giờ 37 phút. Đặt an vị đồ rước. Trước cách mạng tháng 8/1945, đoàn rước có 3 điểm khác: Kiệu bát cống đặt tượng thành hoàng có lọng, quạt che 2 bên kiệu. Đi sau đội tế nam là hội đồng kỳ hào lý mục và các cụ cao niên trong làng. Nhiều năm xuất hiện kiệu bay, đoạn từ cổng Bến đến lăng Phạm Sỹ. Lúc đó kiệu và người khiêng kiệu, người cầm quạt, lọng cũng bay theo. Ông Lê Xuân Thọ, 86 tuổi, Bà Phạm thị Ký, 82 tuổi, hiện ở 42 Tam Giang, thành phố Hải dương từng chứng kiến cảnh kiệu bay khi xem hội làng năm khoảng 1943, 1944. Ông bà Thọ, Ký đến nay vẫn giữ kỷ niệm về ngày được xem hội làng, chứng kiến kiệu bay với "cảm giác lâng lâng, năm đó đều gặp điều tốt lành".
Kết luận và đề nghị.
Hội làng Châu Khê hàm chứa nhiều giá trị lịch sử nhân văn, nhiều phong tục tập quán của một làng cổ có đặc điểm “tại hương tại phố”. Trước Cách mạng tháng 8/1945 và hiện nay có sự khác nhau ở vài nghi thức trong nghi lễ, lễ vật, phần hội. Tuy không còn bánh xu xê, vàng thỏi dâng thánh, đội hình tạo nên kiệu bay trong đám rước, tổ chức hát xướng ca, đánh cờ 15 ngày nhưng lễ hội vẫn giữ được hồn cốt, nét vui nhộn, hoành tráng của lễ hội làng nghề vàng bạc truyền thống.
Phát huy giá trị của làng nghề vàng bạc có tuổi lịch sử 550 năm, thiết nghĩ Châu Khê cần có bộ sưu tập về sản phẩm chế tác vàng bạc trưng bày trong ngày hội truyền thống. Đội hình trong đám rước, nhất là đội cờ thần, cờ hồng kỳ cần đảm bảo nghi thức nghiêm trang trong cả thời gian rước.
Đặng Văn Lộc
Tài liệu tham khảo:
1. Châu Khê thần tích sự trạng, tài liệu tại địa phương.
2. Bản khai sự tích Thành hoàng làng xã Châu Khê, tổng Thị Tranh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 1938 - FQ 40/18/IX, 16 - Viện thông tin KHXH Hà Nội 1995
3. Phạm Minh Tiến- Châu Khê thần tích lịch sử và phát triển. Sở thông tin truyền thông tỉnh Hải Dương cấp phép, 5.2009.
4. Văn bia Song Khê duyên khánh đường bi ký.
5. Văn bia Sùng ân tự viết năm Chính Hoà 13 (1692)
6. Ông Lê Xuân Thọ 86 tuổi, bà Phạm thị Ký 82 tuổi, người làng Châu Khê hiện ở 42 Tam Giang, thành phố Hải Dương.
7. Ông Phạm Văn Thăng 73 tuổi, người làng Châu Khê, nguyên phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch hội khuyến học huyện Bình Giang.
8. Ông Phạm Minh Tiến 73 tuổi, Trưởng ban quản lý di tích đình chùa Châu Khê, nghệ nhân kim hoàn đá quý quốc gia.
9. Ông Lê Xuân Đương 73 tuổi, người làng Châu Khê, đại diện ban đồng hương Châu Khê tại phố.
10.Ông Vũ Đình Năng, Chủ tịch UBND xã Thúc Kháng huyện Bình Giang.
11. Ông Phạm Văn Xim, Phó chủ tịch UBND xã Thúc Kháng huyện Bình Giang.
12. Ông Phạm Huy Đạt 53 tuổi, người làng châu Khê, Trưởng phòng Nội vụ UBND huyện Bình Giang
13.Ông Hoàng Đình Dương 45 tuổi, người làng Châu Khê, Chủ nhiệm HTX vàng bạc Châu Khê.
14. Ông Nguyễn Đình Tuân 80 tuổi, người Châu Khê, nghệ nhân kim hoàn đá quý quốc gia.
15. Ông Phạm Hồng Khiêm, trưởng thôn Châu Khê.
16. Ông Phạm Đình Ngoan, Bí thư chi bộ thôn Châu Khê.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Đưa tôi về Trang chủ