BÁO-ÂN THIỀN TỰ BI KÝ
Hội thích giáo thiền tự già Báo-ân tự bi ký.
Thích chủ xuất hóa, tăng sùng kỳ ảnh, xuất thế hào kiệt tôn sùng chi.
Phong trị động chương công giám thần, Kim tử quang hoằng thái trưởng trưởng tử thái tử nhật trung huệ mmôn hạ thị công, đặc tiến phong Ân sĩ đại phu văn công, quốc công, lệnh công, tiến bật tử điền bách mẫu dư, trắc quán nhị, thiên dư, cung Như lai biểu ư nhất gia, dĩ cảnh kỳ hậu sự. Chiêu vu dĩ thị, vĩnh cửu vô di.
Nguyên phù ký điển bất khả phi nhi dĩ hĩ, thệ nguyện từ bi chi quảng chứng sở do nhiên. Lịch quan kỷ thế nhi vô hưu; hội khải đương dương chi thiện chúc. Nhật huy nguyệt ánh, thai luân chiếu thụy nguy nga, sắc chỉ hoàng hoàng; cổ vãng kim lai, thế thượng đức hàng bính thước, chuẩn minh ngật ngật. Hi hi nhi quốc mạch hân nhiên; hạo hạo nhi sơn hà tráng lệ. Yên lại dung ư nhược mộc đức tuân thủy đức, định công hoằng hậu chi sâm sâm; phó hà quảng iư chi huệ ân mộc thiên ân, sung tích nhân dung chi tế tế. Vĩnh thùy vạn thế, thị bi chi ký dã, vĩnh mạc san. Từ bi nhi ánh tiên, đại đạo dĩ quang dung, ý triển chu tùng, nhân minh cảnh thiên.. Nãi nhân giả cảnh dã đạo giả thiện dã, dị an sở dã. Minh giả ý dã, tùng giả hương dã, lý đạt tất nhiên dã. Ngọc trác duy minh, kimkhai túng tú. Như sơn cừ nhật nguyệt, ưu dĩ dạo văiệt nam sung chi. Sùng giả chí cam lồ, trí hiếu minh hồ?
Âm thể viễn nhi viễn dã, sở dụng chi hoàn nhi bi chi khắc, lưu vi ức tải hồ, lộng lộng chi hu minh. Cảm niệm y danh hồ, miên miên nhi bất dẫn. Thất gian tuẫn tuẫn phương hưng, nhất ấp khôi khôi cảnh hiểu. Nhiên kỳ quy mô nhitúc ký, giá phù công sự nhi thực san. Ký khoa ý đạo hoằng thi vi khắc thuần yên. Thấu hải viết: tục tuân vu cổ thường minh. Viết: đức bản do thiên sở tạo. Nãi kim thái tử phùng kiến phúc cơ Tự-già Báo-ân tự, nhật ảnh nguy nga thánh điện; kim dung hách dịch cao tung. Thời dã tam nhật thanh trai, thời dã nhất tâm thệ nguyện. Trắc dư thất bách, ký chuẩn đương diên; trân bảo thất chủng cung dưỡng. Triển chiếu đức hạo hải hà; cao dương nhật nguyệt. Thời phù công gia cư tặng sĩ nãi khâm ban chi giả, phi đoan như nhất, phi trí thiếu trưởng, đốc nhất trụ trì, sùng tụ khai sáng, cảnh phúc trang hoàng, ư chi tố hảo. Nguyễn công thị Cao Tông đại Đề công trưởng tôn, hội nguyên chi trị, quang dung kỳ trạch, nhuận nhu xuân địa tháp. Nguyễn công lai tịch mật trì ư gia pháp. Nãi trí công cứu Thị vệ ư Long cung, dữ công chúa kiến kiều tự tháp. Niên nguyệt nhật thì hoạch nhi, đắc Tín quận công Phạm công Trác trúc diên lư cầu khang thái. Nhưng chỉ phụng cấp Trung siêu quận quốc. Kỳ thời ký đắc Nguyễn Bá công Công Lượng, Ninh-sơn tể tướng Phạm Côn, trúng ất khoa, bổng long đình, kỳ phẩm tòng nhị, khâm phụng hoàng đế kỵ thái thượng hoàng, đại nhị thánh trạc công vi tướng. Quốc vô cương nhi Nghiêu dân nhất nhượng, đồ củng cố nhi Phật pháp tăng sùng.
Quảng bố đức nhuận gia; thiện dụ nhân lạc đạo. Phù tu nhi viễn quán hưu viễn; ký bí nhi minh thẩm do minh. Thượng nhi hoàn xuân, phát trường triêm thánh đức kiêm long; bảo nhi dũ thúy, quang minh diễn hồng đồ vĩnhcố. Công sung nhiêu, thân thích dĩ câu toàn; ấp quyến đĩnh, lân kỳ nhi chung tú. Ngưỡng nhi lai, trú trác chung linh; dung sung pháp khí. Chiếu bích thiên, phúc lưu hậu thế, án diễn Trụ trừng, tự cổ nhi dã. Vưu hoằng mộc thị tai! Đồ vũ vu kim nhi diệc nhĩ.
Nại hữu ngã công lai cổ Báo-ân sán lạn, tự huyễn kiến Tự-già diệu sán, duy nhiên chi lăng ngạn tiêu dao, thuật khả vị trinh tường chi ảnh. Nãi nhất trụ nhi cổ chi, đoan lạc đạo diệu thiền, thiện tòng giáo pháp. Vân tùng kinh đốc, chiêu hải tịch nhi phiến phiến thù ân; cảnh bảo kinh trì, nãi trân thành nhi miên miên báo bản.
Thại công dung chuẩn nhi kết thoa; nguyệt kiến khai kỳ nhi khởi tạo. Phụng ban nhật thượng khu trì, nhi phó ty quan tứ bộ. Cung mệnh chư nhân, trạch nhật nhi tán đắc cát diệu thần; thân chiếu cung phi nhi mạc vô sở cung; tắc thông kinh quốc nhi phổ niệm giai thi. Như ô hợp hàm lạc chi hi nhiên, hữu dư tế đắc siêu chi chúng dã. Trụ sắc điểm phương hoa diệu thái, minh châu ánh chiếu sơn hà; cung nguy cao điện chủng thăng hằng, lãng diệu quang huy nhật nguyệt. Bảo tọa trang hoàng; kim dung đĩnh đặc. Hồng chung phượng các, tu du nhi phác trác tài thành; bảo khánh long đài, hách nhĩ nhi đoan dương tố định. Duy như sơn ngạn, cảnh vật phi thì. Cập chí Bi điền, phương chư hữu ký. Nội sa ngoại kệ câu trần, Phạm tự tư dân tư liệt.
Kỳ nội sa Phan-thượng tam thập mẫu, Phan-hạ tam thập mẫu, Tửu-bi nhị thập mẫu, cập đồng Hấp tam thập mẫu. Như ngoại kệ Đồng-chài bát mẫu, Đường-sơn ngũ mẫu, Đồng-nhe tam mẫu. Các đẳng xứ cộng nhất bách nhị thập lục mẫu, cúng vi oán sự điền dưỡng tăng, tam mẫu thủ tự; dư tứ dân phòng tu tự cập trai soạn thanh tu, cô hồn hội lệ.
Hu cảnh giả, đoài vị tiếp Đằng kiều chi tế, cơ nhật huyên hoa, cổ trạo lai chu. Ly phương trĩ Huyền-nhạc chi phong, di niên duy tân, hợp tập phi điểu. Ngạn uất phức thụ chi xuân, cảnh thắng tư linh chi mĩ. Khảm liên Bi-đàm chi điền. Chấn đạp mục đồng chi dịch. Kỳ Bi điền Nguyễn công sở nãi triệt thanh phầu nhất thiên quán dư, mãi đắc nhất bách dư mẫu dĩ cung cấp oản sự. Kỳ tự hiệu viết: Tự-già Báo-ân tự, khả vị phúc cơ nhi dĩ hĩ. Nguyễn công sở nãi tư duy kỳ sung khai sáng, thị tu nhất nhân phúc chi lương duyên; thả kết thắng nhân, liệt Hội hãn cửu viên chi tôn giả. Niên niên xả sổ mân xích trắc, thí binhg vô giáp ất chi khoa; nguyệt nguyệt cung bách đoạn hồng la, ban liệt mị hồng y mạo đẳng. Thái phan lưu lượng, ngưng sắc tuyến nhi nghĩ phách phương hoa; bảo cái phân vân, ánh tiên đức nhi triệt phô chúc giám. Triết hệ danh hoa xứng quả, hiến thánh tượng nhi phúc mãn tam thiên; hội hợp tinh tú chân tiên, liệt hương diên nhì cảm lai hạ giới. Minh chung chấn cổ, thanh liêu lượng nhi lăng triệt đà thiên; trai soạn thanh tu, vị cam di nhi khắc chiêu hải tịch. Đăng quang chiêu chước, động u minh nhi chửng bạt tiên vong; hương khí phân uân, huân thượng phương nhi phúc lưu hậu hóa.
Thượng chúc vi đương kim hoàng đế kị thái thượng hoàng, thu nhị nghi nhi nam diện; thiệu Nghiêu Thuấn nhi phi cơ. Ký ức tải dĩ ngự lê dân, đẳng thiên linh nhi sùng Phật pháp. Thứ chúc tu phúc ngũ đẳng, thôi báo hóa, lộc vị cao thiên; tá thánh chủ nhật trường tân, tập thiện nhân niên niên bất phại.
Triếp dĩ tài khinh thiền dực, dật trữ vu ngôn, tàm vô sinh hạ chi từ, cưỡng sử tự thiên chi đạo.
Nãi minh viết:
Chân như ký định,Phật đạo phương hưng.Tâm chủnh đốn tịch,Ý mã khuynh trừng.Tiên vong hậu hóa,Thiên đường tốc đăng.Dục khoác trầm nịch,Kính trọng Phật tăng.Ngưỡng từ đế cấu,Nguyễn công sở vi.Nhung y nhất quải,Yển thảo li phi.Sổ mân xích trắc,Bách đoạn hồng li.Sùng tu pháp tịch,Cảm đắc hồng hi.Thái phan bảo cái,Ánh nhật ngưng huy.Chung cổ dát kích,Loa thốc bả suy.Thanh tu trai soạn,Bách vị cam di.Thi vô giáp ất,Ban vô ấu kỳ.Đăng quang chiếu chước,Đông triệt bính di.Nguyễn công tích thiện,Lũy đại tước mi.Tá thánh ức tải,Phụng Phật vô di.
Dịch nghĩa
BÀI KÝ BIA CHÙA BÁO-ÂN
Bài ký Hội Thích giáo Thiền tự già chùa Báo-ân.
Bậc thí chủ xuất tiền làm cảch chùa thêm đẹp, được các vị hào kiệt hơn đời tôn kính.
Nay có ông Phong trị động chương công giám thần, kim tử quang hoằng thái trưởng tử thái tử nhật trung huệ môn hạ thị công, đặc tiến phong Ân sĩ đại phu văn c; quốc công, lệnh công đem hơn trăm mẫu ruộng thế nghiệpvà hơn hai nghìn quan tiền, cúng Như-lai để nêu cao công đức một nhà, cho việc mai sauthêm long trọng, và tỏ lòng thành kính mãi mãi không quên.
Xưa nay sách phật dạy không sai mà chứng quả lớn của lòng từ rành rành còn đó. Trải bao thế đại vẫn không ngừng, nay gặp hội rực hồng đuốc thiện. Nắng tỏa trăng soi nền phúc nguy nga, điềm lành vòi vọi; cổ kim tiếp nối, bè từ chói lọi, cây đức ngất trời. Vận nước huy hoàng; núi sông tráng lệ. Thấm thía như cây nhờ ơn nước, cảnh mai sau xanh tốt thắm tươi; rạt rào ơn Phật lẫn ơn trời, nguồn nhân hậu lưu dành chan chứa. Văn ghi bia dựng, lưu lại ngàn đời; đạo cả lòng từ, khắc sâu muôn thủa. Ý tốt tỏa hương thơm, lòng nhân ngời đức thiện. Nhân là lớn, đạo là lành, để lại phúc lành cho con cháu. Minh là đẹp, tùng là thơm, lẽ báo đền âu cũng hiển nhiên.
Ngọc mài thì sáng, vàng chuốt thì tươi. Như núi sông nhật nguyệt trường tồn, thêm đạo lý văn chương tô điểm. Sùng thượng thì được hưởng phúc lành, sáng suốt là khắc sâu chữ hiếu vậy chăng?
Tiếng nói và thể phách chết đi là mất, của cải cúng vào chùa ghi tạc trong bia, muôn thuở lưu truyền, tiếng tăm lừng lẫy như ánh mặt trời mới mọc. Tấm lòng ngưỡng mộ, danh vẻ vang mãi mãi không mờ.
Bẩy gian san sát vừa xây, một xóm sáng tươi rực rỡ. Quy mô ấy đã nên ghi, công nghiệp nọ càng đáng khắc. Ghi nhớ ý tốt, ngợi ca việc thiện, hẳn cũng nên làm vậy. Sách Thấu hải nói: phong tục theo đời cổ là hay. Lại nói: đạo đức vốn tự trời sẵn phú. Nay thái tử thấy cảch chùa Tự già Báo-ân: điện thánh tầng tầng, vần dương tỏa chiếu; phật đài sừng sững, dáng núi vút cao. Thường khi ba ngày ăn chay, thường khi một lòng phát nguyện. Thái tử bèn bỏ ra hơn bảy trăm quan, sửa sang tiệc cúng; lại đem các đồ thất bảo dâng lên toà sen. Thực là: đức rộng bằng sông biển, lòng sáng như trăng sao.
Lúc ấy các sư sãi ở nhà ông đều là nhừng người vâng mệnh triều đình cùng chung một chí hướng, dù trí hay ngu, dù lớn hay nhỏ, dốc lòng trụ trì, tu sửa mở mang, cõi phúc được trang hoàng tốt đẹp. Nguyễn công là cháu trưởng Đề công dưới triều Cao Tông hoàng đề, gặp thời thạnh trị đã làm cho cửa nhà rạng rỡ, tháp đất xuân tươi nhuần. Nguyễn công sâu sắc khéo giữ phép nhà, nên được giao xem xét thị vệ ở Long cung, cùng công chúa bắc cầu, xây tháp. Ngày tháng năm ấy sinh con trai, được Tín quận công Phạm công Trác lập đàn cầu mát. Tiếp đó có chỉ thăng hàm Trung siêu quận quốc.
Khi ấy, Nguyễn Bá Công là Công Lượng, Tể tướng Phạm Côn, người Ninh-ơn, trúng ất khoa, được vào chầu sân rồng, hàm tòng nhị phẩm, vâng lệnh hoàng đế và thái thượng hoàng cất nhắc ông làm võ tướng. Cơ đồ mở rộng, dân thảy dân Nghiêu; bờ cõi vững bền, càng tôn phép Phật.
Bố thí rộng thì đức sáng cửa nhà; khéo dạy bảo thì người vui theo đạo. Phúc báo nào có xa đâu; việc ghi vẫn còn rõ lắm. Ơn vua thấm khắp, cây cỏ xanh tươi; đuốc tuệ rộng soi, non sông bền vững. Nguyễn công phúc lộc dồi dào, thân bằng toàn vẹn; làng xóm khí thiêng chung đúc, sinh lắm trai tài. Chuông khánh trước tòa Phật, từng đã đúc nên; pháp khí trên bàn thờ, nhiều phen dâng cúng. Đức thấu trời xanh, ơn lưu hậu thế; giận dữ ác độc, thảy đều tiêu tan, nghìn xưa vẫn vậy. Nhờ có sự bố thí rộng rãi, mới có cảnh chùa đẹp đẽ ngày nay.
Nguyễn công trước kia từng tới thăm chùa, khuyến hoá mọi người báo ơn trời phật. Từ hư không dựng cảnh chiền xán lạn, làm nơi cực lạc tiêu dao, thật đàng gọi là điều tốt đẹp.
Nguyễn công vừa tới trụ trì, chùa đã nổi danh, vui đạo diệu thiền, chăm theo giáo pháp. Dốc lòng cung kính, một niềm báo đáp Phật ân; phép báu giữ gìn, thành kính báo đền tổ đức.
[Thế rồi]: thuê người vẽ kiểu, tính toán vật tư; xem tháng bói ngày, hẹn kỳ khởi tạo. Vâng mệnh trên, người người gấp rút lo toan, khắp cả quan ty bốn bộ. Mọi kẻ thừa hành răm rắp, xem quẻ chọn được ngày lành. Các bậc cung phi, ai ai cũng góp. Muôn dân trong nước, nhà nhà đều quyên. Như đàn chim họp bày ríu rít, như chúng sinh vui được siêu thăng.
[Kết quả là]: cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi non sông; cung điện huy hoàng, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng. Tượng phật trang hoàng; tòa sen đĩnh đạc. Chuông to gác phượng, chẳng bao lâu tu tạo đã xong; khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghiêm rõ rệt. Vững như vách núi, cảnh đẹp bao mòn. Lại còn ruộng xứ đồng Bi, ghi chép giới phân càng rõ. Trong đồng, ngoài bãi rành rành, cúng phật, cho dân minh bạch. Trong đồng thì xứ Phan-thượng 30 mẫu, xứ Phan-hạ 30 mẫu, xứ Tửu-bi 20 mẫu, xứ Đồng-hấp 30 mẫu. Ngoài bãi thì xứ Đồng-chài 8 mẫu, xứ Đường-sơn 5 mẫu, xứ Đồng-nhe 3 mẫu. Các xứ cộng 126 mẫu, cũng làm ruộng oản nuôi sư, 3 mẫu cho người giữ chùa, còn bao nhiêu để lại cho dân, phòng khi tu sửa, cùng là sắm cỗ chay oản quả, dịp hội hè, bố thí cô hồn.
Ôi, cảnh chùa này phía Tây tiếp giáp cầu Đằng, suốt ngày nhộn nhịp. tiếng chèo khua, thuyền mảng qua lại. Phía Nam có non Huyền cao ngất, cảnh sắc xinh tươi, chim về ríu rít. Bên bờ cây xuân thơm phức, cảnh đẹp nhờ vẻ linh thiêng. Phía Bắc bát ngát đồng Bi, ruộng từng khoảnh tiếp liền một dải. Phía đông mênh mông nội cỏ, sáo mục đồng [hôm sớm vi vu]. Hơn trăm mẫu ruộng xứ Bi-đàm là do Nguyễn công bỏ ra hơn 1000 quan tậu cũng làm ruộng oản.
Chùa đặt tên là Tự-già Báo-ân, có thể gọi là xây nền phúc vậy. Nguyễn công nghĩ rằng: công lao tu tạo, ấy mới là duyên đẹp của một nhà; lại kết thắng nhân, kể tên đủ chín vì trong Hội hãn. Năm năm cúng vài quan tiền tốt, việc từ tâm nào kể ít nhiều; tháng tháng dâng trăm tấm lụa hồng, hàng áo mũ nệ gì cao thấp. Phướn bay khoe sắc, phất phơ muôn đoá hoa tươi; tàn ngọc phơi màu, lấp lánh ngàn đèn đuốc rọi. Quả đẹp hoa thơm dâng tượng thánh, phúc tràn thế giới ba nghìn; chân tiên tinh tú, hưởng tiệc hoa, chứng giám lòng thành hạ giới.
Khua chiêng gõ trống, tiếng vang vang thấu đến tầng trời; phẩm oản mâm chay, mùi ngon ngọt rỡ ràng tiệc cả. Ngọn đèn soi thấu, cõi u minh siêu độ kẻ tiên vong; hương khói ngạt ngào, nơi đất Phật phúc lưu người hậu hóa. Trước hết chúc: đương kim hoàng đế và thái thượng hoàng, vâng mệnh trời mà trị vì, nối Thuấn Nghiêu mà giữ nghiệp. Sồng muôn năm để trị dân đen, thọ nghìn tuổi để hộ trì Phật pháp. Thứ đến chúc tất cả các vị công hầu khanh tướng, ngọc vàng giàu có, lộc vị cao thăng, giúp thánh chúa ngày ngày đổi mới, trồng thiện nhân mãi mãi không ngừng.
Tôi nay tài mỏng cánh ve, lạm dùng chữ nghĩa rông dài, thẹn không ý đẹp lời hay, gượng thuật đạo trời cao cả.
Minh rằng:Chân như đã định,
Đạo phật đang hưng thịnh.
Cái tâm phút chốc đạt đến chỗ lặng lẽ,
Ý càn rỡ hung hăng chợt lắng trong.
Kẻ chết trước, người tịch sau,
Đều lên thiên đường..
Muốn thoát khỏi cảnh chìm đắm [trong bể khổ],
Phải kính trọng phật và sư.
Kính cẩn xây dựng chùa,
Đó là việc làm của Nguyễn công.
Một lần khoác áo chiến bào,
Là bọn giặc tan rạp như cỏ lướt theo gió.
Vài quan tiền,
Trăm tấm lụa hồng,
Để sửa sang cảnh chùa,
[Cho nên] được phúc lớn.
Phướn hoa, lọng báu,
Phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ.
Rung chuông đánh trống,
Thổi sáo, thổi tù và.
Tiệc chay thanh đạm,
Trăm vị thơm ngon.
Bố thí không kể nhiều ít,
Ban phát không kể trẻ già.
Ánh đèn nến sáng rực,
Thấu khắp nơi nơi.
Nguyễn công tích phúc thiện,
Nhiều đời được phong tước.
Giúp vua ức vạn năm,
Tôn sùng Phật pháp không lúc nào thiếu sót.
Dịch thơ
Đạo chân như đã định,
Phật giáo đang khơi dòng.
Tâm trở về hư tịch,
Y càn rông lạng trong.
Người hóa sau, tịch trước,
Thiên đường, một lối chung.
Muốn thoát dòng bể khổ,
Phật tăng phái kính sùng.
Chùa Báo-ân lộng lẫy,
Là do sức Nguyễn công.
Áo chiến bào vừa khoác,
Cỏ lướt gió hãi hùng.
Vài nghìn quan tiền tốt,
Mấy trăm tấm lụa hồng.
Sửa sang đồ pháp khí,
Được phúc thỏa ước mong.
Phướn hoa và lọng ngọc,
Ánh mặt trời linh lung.
Trống chuông khua rộn rã,
Kèn sáo thổi tưng bừng.
Nào cỗ chay thanh đạm,
Nào trăm thức thơm lừng.
Bố thí dầu nhiều ít,
Già trẻ đều hưởng cùng.
Ánh đèn soi rực rỡ,
Sáng chói cả một vùng.
Nguyễn công dày phúc thiện,
Đời nối đời tước phong.
Muôn năm giúp thánh chúa,
Thờ Phật dốc một lòng.
Trấn vi viên ngoại lang NGỤY TỰ HIỀN soạn
Tháng 12 năm Trị Bình Long Ứng thứ năm (1209) ngày tốt dựng bia
NGÔ THẾ LONG - BĂNG THANH
http://dnulib.edu.vn
Chú thích:
Chú thích:
(1) Chùa Báo Ân: hồ sơ của bia ghi chú chùa ở xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trĩ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên. Theo ÐNVNQCÐ, Yên Lãng là tên đặt sau đời Lý. ở đời Lê, huyện Yên Lãng thuộc trấn Sơn Tây. Trấn Sơn Tây đời Lý là miền đất thuộc lộ Quốc Oai. Hiện nay Yên Lãng thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
(2) Hội Thích giáo thiền tự già: có lẽ là hội của những người theo đạo Phật nhưng không xuất gia. Hiện chưa tìm được tài liệu ghi chép rõ về kiểu tổ chức này.
(3) Tiếng nói và thể phách chết đi là mất, của cải cúng vào chùa còn ghi tạc trong bia: nguyên văn: âm thể viễn nhi viễn dã: sở dụng chí hoàn nhi bi chi khắc. Câu này rất khó hiểu. Trong Phật học, khái niệm âm và thanh rất quan trọng. Câu này cũng có thể hiểu theo nghĩa chữ là: "cái thể" của âm thì xa và càng xa mãi, nhưng "cái tác dụng" của nó thì tuần hoàn (tồn tại) và bia được khắc lại. Nhưng chủ ý của tác giả định nói về vấn đề gì cũng chưa rõ ràng.
(4) Thất bảo: còn gọi là thất trân.
(5) Cao Tông: tức Lý Long Trát.
(6) Ðoạn này mạch văn rất rối, tạm dịch như trên. Các nhân vật này cũng chưa rõ tiểu sử.
(7) Hàm Trung Siêu quận quốc: nguyên văn: "Phụng cấp Trung siêu quận quốc" nghĩa là vàng và chỉ trao hàm Trung siêu quận quốc. Chưa rõ hàm tước này.
(8) Ninh Sơn: Trong Lĩnh Nam chích quái, Ninh Sơn là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng có ghi. ở đời Lê, Ninh Sơn thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, có lẽ ở đời Lý thuộc lộ Quốc Oai chăng? Phủ Quốc Oai nay là huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
(9) Hoàng đế và thái thượng hoàng: chế độ vua và thái thượng hoàng cùng coi chính sự là đặc điểm của nhà Trần. ở thời Lý sử sách chỉ ghi có hai trường hợp: Lý Thần Tông (1128-1137) sau khi lên ngôi tôn Sùng hiền hầu là thái thượng hoàng. Lý Huệ Tông (1211-1224) sau khi nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàng cũng xưng là thái thượng hoàng. Tuy nhiên, bài văn bia này được viết vào năm Trị Bình Long ứng thứ năm (1209), lúc tình hình chính sự rối ren. Theo Việt sử lược và Ðại Việt sử ký toàn thư, lúc đó có các cuộc chống đối của Quách Bốc, Phạm Du, Trần Tự Khánh làm cho triều đình ly tán. Lý Cao Tông chạy ra Quy Hóa, hai con trai chạy về mạn Lưu Gia. Một trong hai con trai đó là Lý Hạo Sảm được bọn Trần Lý tôn lên ngôi, xưng là Thắng Vương, có phong chức tước cho một số người và lập nguyên phi. Trước sự kiện đó, có lẽ nhiều người đã coi Lý Cao Tông là thái thượng hoàng chăng?
(10) Nguyên văn: viễn quán hưu viễn, minh thẩm do minh, ý chưa rõ ràng, chúng tôi tạm dịch như trên.
(11) Pháp khí: ở đây chỉ các đồ thờ Phật như đèn, hương, chiêng, mõ...
(12) Nguyên văn: án diễn Trụ trừng. án diễn là chữ trong bài Cầm phú của Kê Khang, có nghĩa là vẻ bất bình. Trụ là vua cuối cùng của nhà Ân, rất tàn bạo độc ác. ở đây tác giả muốn nói mọi sự độc ác giận dữ đều được lắng đi.
(13) (14) Tiên vong, hậu hóa: thuật ngữ đạo Phật, đều có nghĩa là chết.
(15) Công hầu khanh tướng: dịch ý chữ ngũ đẳng, tức là các hàng quan to trong triều được phong theo tước công, hầu, bá, tử, nam.
(16) Sau đoạn này, bia còn một đoạn ghi tên 10 người trong Hội và địa giới ruộng chùa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét