Hai tấm bia của Lê Quý Đôn và Nguyễn Nghiễm ở Sinh từ của Quận công Phạm Huy Đĩnh ~ Cội nguồn họ Phạm

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Hai tấm bia của Lê Quý Đôn và Nguyễn Nghiễm ở Sinh từ của Quận công Phạm Huy Đĩnh

HAI TẤM BIA CỦA LÊ QUÍ ĐÔN VÀ NGUYỄN NGHIỄM SOẠN Ở SINH TỪ CỦA QUẬN CÔNG PHẠM HUY ĐĨNH

PHẠM MINH ĐỨC
Viện Nghiên cứu Hán Nôm


Đền thờ Quận công Phạm Huy Đĩnh ở thôn Cao Mỗ, xã Chương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giờ chỉ còn lại hai gian bé nhỏ, khiêm tốn mà dân địa phương hay gọi là nơi “voi đá ngựa đá”. Ở đây vẫn lưu giữ được 2 tấm bia: một bia do Diên Hà Lê Quý Đôn soạn, một bia do Tiên Điền Nguyễn Nghiễm soạn. Cả 2 tấm bia đều được lập vào năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772). Nhận thấy đây là hai tấm bia có giá trị cả về nội dung và hình thức cho nên chúng tôi xin giới thiệu 2 tấm bia này.
Tấm bia thứ nhất
Phiên âm:
BÁO ÂN PHƯỜNG BI KÍ
Cao thử hàng xuân ca công chi niệm trọng; phất đường thuỳ ấm báo thí chi nghĩa tồn. Khai thương chẩn hương lý Lưu thứ sử dã, dân hô tục mệnh chi điền. Thôi tài dĩ bộ khúc Phan tướng quân dã, dân tụng Nam Sơn chi thọ. Yên Đài kỷ ái, xã chúc Loan Công. Tề quận minh nhân, từ sùng Thạch tướng. Lưu hinh thụ đức, tự tích nhi nhiên. Cầu chi đương kim, tắc Thái tể Thiều Quận công Phạm công. Kỳ nhân dã, công hành năng thuần bị, khí chất hàm, hoằng, thanh, hòa, biểu kỳ phong tiêu, học vấn ích kỳ thần trí. Lan hoài hương nhi tự viễn, ngọc tại bội nhi hữu thanh. Tảo há long quang nhĩ bồi hạc cấm. Trung thành chính trực, thực giản miện lưu. Đãi hồ tiêu hán long phi vân quỳ hồng tiệm, điển chương am luyện, tư thứ sự chi bình hành. Mệnh lệnh phu dương tủng đại đình chi phong thái. Khử phiền dịch đố nhật nguyệt hồi quang; cầm nghịch tồi gian giang sơn khởi sắc. Cố dĩ đan thư thiết khoán, kỉ vĩ tích ư tông phương; bảo đỉnh cảnh chung lặc hồng du ư lang miếu giả hĩ. Tố công chi tài chi đức túc dĩ biện sự nhi phục nhân; thôi chí thôi cần túc dĩ sùng công chi quảng nghiệp. Thân đô phú quý, nhậm kiêm nội ngoại. Thanh hoa chính mậu, quyến sủng phương long nhi nãi luật kỉ khiêm vĩ đề cung kiệm ước. Vị Xuyên thiên mẫu chi trúc mỗi cụ mãn doanh, trì dương nhị khoảnh chi điền hằng tư chỉ túc. Bất cầu đa tạng, bất thực tư tài. Phiếm ái nhi thân nhân, ôn cung nhi hiếu thiện. Ư tộc đảng vô sở khan, ư hương lư vô sở khiếp. Hưng tiện trừ hại ký di bách lý chi an; chẩn phạp chu cùng cánh thăng vạn gia chi nhuận. Dịch viết: “Thí lộc cập hạ”, Truyện viết: “Phân nhân dĩ tài”. Công kỳ dĩ chi bản phường nhân đẳng cửu mộc dư ba túc y cự tí. San Mã Công chi vạn hộc cảm bội đầu đào; hưởng Nguỵ tướng chi thiên chung tình du ái thụ. Bạch thiều cộng hội đại tiểu tương mưu sáng thử sinh từ thân kỳ tư báo. Ngõa thạch như vụ, đống vũ duật tân công thổ chi tắc thế bất năng nhậm chi tắc ý bất khiếp. Phục dư phì điền thập thất mẫu sử thu tuế [......] khất tự ư dư, dư dữ.
Dịch nghĩa:
BIA GHI VỀ PHƯỜNG BÁO ÂN
Lúa tốt trải dài mùa xuân ca ngợi việc ghi nhớ công ơn sâu nặng; cam đường rủ bóng mát bày tỏ nghĩa báo đáp đang còn. Mở kho phát chẩn cho làng xóm là Lưu Thứ sử, mọi người gọi đó là lấy đất để cứu người. Lấy của cải cho người dưới là Phan tướng quân, dân ca tụng thọ như Nam Sơn. Yên Đài ghi chép về sự yêu thương, mọi người trong xã chúc thọ Loan công. Tề quận ghi về điều nhân, từ đường là để tôn sùng Thạch Tướng. Lưu hương thơm trồng cây đức, từ xưa mà đúng. Cầu được Thái tể Thiều Quận công Phạm công, ông làm việc có đầy đủ kiến thức: sâu sa, rộng mở, thanh liêm, khoan hòa. Ông tỏ rõ được tấm gương nêu cao, học vấn của ông có ích cho việc mở mang thần trí. Danh tiếng của ông như hương lan thoang thoảng từ xa, ngọc bội ngân nga vang tiếng. Sớm được giao trọng trách, giúp đỡ thế tử. Ông là người chính trực, ăn mặc giản dị. Đã đến lúc rồng bay lên tầng trời cao, chim hồng dần tới đường mây, ông thành thạo các luật lệ, giải quyết các việc đều công bằng, khi ban lệnh ông tỏ rõ được phong thái cao ngất của lệnh ban ra. Khử điều phiền muộn, diệt loài sâu mọt khiến cho mặt trăng mặt trời lại sáng; bắt kẻ phản nghịch, trừ loài gian ác làm cho giang sơn khởi sắc. Cho nên có những lời thề son sắt ghi những công lao to lớn của ông trong miếu thờ; Đỉnh báu chuông lớn khắc những kế sách lớn lao của ông đối với tông miếu xã tắc. Tài của ông, đức của ông đầy đủ để phân định rạch ròi mọi việc khiến người khác phải khâm phục; ý chí của ông, sự siêng năng của ông đủ để tỏ rõ công lao và mở mang cơ nghiệp. Không những bản thân được đầy đủ phú quý mà họ nội, họ ngoại danh tiếng cũng vẻ vang. Đang được sủng ái nhiều mà còn khiêm nhường, đề cao kiệm ước. Nghìn mẫu trúc ở Vị Xuyên luôn luôn sợ nước tràn bờ; ruộng hai khoảnh ở phía bắc luôn luôn nghĩ đến lúc đủ dÙng, không chất chứa nhiều, không tham của riêng, yêu rộng rãi mọi người mà thân với điều nhân; ôn hoà cung kính mà thích điều thiện. Ở trong tộc đảng thì không hẹp hòi, ở trong xóm làng thì luôn nhân ái. Khởi xướng việc trừ hại giúp cho nhân dân hàng trăm dặm được yên ổn, phát chẩn cho người thiếu thốn, chu cấp cho người khốn cùng làm cho muôn nhà được no ấm.Kinh Dịch nói rằng: “ban phát lộc cho người dưới”, trong lời truyện nói rằng: “chia của cải cho mọi người”. Những người trong bản phường từ lâu đã được hưởng ân đức của ông, trông cậy vào sự che chở của ông. Ăn vạn hộc của Mã công thì phải cảm kích bội phần và nghĩ đến việc trả ơn; hưởng ngàn chung đỉnh của Nguỵ tướng thì phải biết bồi đắp vun trồng. Thế là già trẻ lớn bé cùng nhau bàn bạc xây dựng một từ đường sống để báo đáp công ơn của ông cho phải lẽ. Gạch ngói nhanh chóng được tề tập, chọn đất công làm nơi xây từ đường. Mọi người không ai không dốc lòng dốc sức. Lại chọn 17 mẫu ruộng tốt sai người cầy cấy thu gặt hàng năm, [...] đến xin chữ ở ta, ta cho.
Tấm bia thứ 2
Phiên âm:
TIÊN HƯNG PHỦ THẦN KHÊ HUYỆN CÁC XÃ
TỪ VŨ BI KÍ
Ký viết: Thái thượng quý đức, kỳ thứ vụ thí báo. Cổ chi hiền thú sở chí hữu lập từ vũ giả đương quan huệ chính chi báo dã. Chí ư tình kiêm lý hãn huệ thiếp hương lư, bất duy tư thế tư nhân chiêm kỳ hậu ốc, tức sổ thập bách thế chi hậu, thả tương mộc kỳ dư ba, tắc phù hiền kỳ hiền nhi thân kỳ thân, lạc kỳ lạc nhi lợi kỳ lợi. Kỳ vi báo dã, hựu ninh trực tạm thời huệ chính chi bễ tai. Quyến tư Đương triều Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Suy trung Tuyên lực Tráng liệt công thần, Phụng sai Dao lĩnh Thái Nguyên xứ Trấn thủ kiêm Đề lĩnh tứ thành quân vụ sự Trung thắng Tiền dực đẳng doanh Cơ trưởng Doanh quan, Thiêm quản Thị hầu thị trù Nội thủy Trung hầu Tả trạch Ưu tiền đẳng đội thuyền, Nội sai Ngũ phủ phủ liêu Tri thị nội Thư tả Hộ phiên Tư lễ giám Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, Thái Tể Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh dĩ tiềm để tòng long chi cựu, vi phúc tâm trướng ác chi thần. Nội lĩnh tứ thành, ngoại kiêm trọng trấn. Phát trích nhĩ tiêu tường chi biến, cầm phòng thanh Lăng mãng chi trần, cố dĩ giản Thần trung ưng thiên sủng khung giai thượng tước, bất thứ siêu thiên nhất thời huân vọng, tại nhân nhĩ mục hữu bất khả đạn thuật giả, nhi kỳ thiên tính khải đễ phiếm ái thân nhân, trạch đàm ư nhất ấp nhi ba cập ư tứ bàng. Dĩ cố quần cư huyện nội vô lự vạn dư khẩu nhi thùy thiều đới bạch giai ái mộ hân hân yên. Nhĩ thời bản huyện các xã tương dữ mưu viết: “Hạ lý hưởng kinh phong hội vật lực song truất, lại hữu Thái tể tiên công phong tặng Đặc Tiến phụ quốc Thượng tướng quân Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Cao đình hầu đề khiếu áo muội, dĩ hữu kim nhật kịp công khắc thừa tiên chí, an chi hoài chi, hưng tiện trừ hại tế cấp giải phân, hạp cảnh quân thụ kỳ tứ, kiêm chi uy vọng tố phu, hào giảo niên tập. Phần du bách lý, hi nhiên xuân đài. Ngô nhân ái chi như phụ mẫu, vọng chi như tuế tinh. Thác kiều mộc chi ấm nhi hoài thốn thảo chi tâm, đồ hữu dĩ báo công nhi vị năng dã. Dữ kỳ Vệ Phong chi Quỳnh Giao, hạt nhược vi an thành chi hương hỏa”. Dữ mưu kỳ hiệp, viên bốc kinh doanh quyết cư lý hữu sảng khải giả. Trung trĩ nhất tinh, tiền trừ bán nguyệt, sầm uất hứa cửu linh huy ẩn nhiên […]. Tức kỳ địa quy nhi từ chi, vi thất tam gian, đường ngũ gian, ngoại vi nghi môn, hoàn dĩ liêu tường thức quách nhất tân, thứ công phi tác. Công cức văn kỳ sự bất dục phiền dân, tức huệ dĩ cổ tiền nhị thiên dư quan vi đan hoạch chi phí, phì điền nhị thập dư mẫu vi tần tảo chi nhu. Từ vũ ký thành định vi điều ước, đệ niên vi bái thọ tức thử vi tụng đảo chi trường, bách tuế nhi ngưng thần tức thử vi hưởng tự chi sở. Đồng ước chi hậu dịch thế bất vong, dục đắc sổ ngôn dĩ truyền bất hủ. Tựu [.....] dư nhã tri phù công tri vi nhân thả gia cai huyện chi tri đức dã. Tắc ngữ chi viết: Cổ chi di ái giả Thiệu công chi đường, Khấu côngchi trúc. Tổng chi truy tư kĩ mộ vị thân thân kiến. Nhược phù ấp thai quang, chiêm chi vũ đột nhiên miếu mạo. Nhân nhi thần chi tắc kỳ cập nhân chi công đức cự khả trắc lượng tai. Duy công chi công tại xã tắc đức tại hương lư, thị nghi hữu thử vô cùng chi báo. Kim nhật nhi cai huyện kính phụng chi thành, tắc vi báo đức, dị thời nhi triều đình bao sùng chi điển tắc vi báo công, bất diệc du cửu nhi du vi dã da. Kim nhi hậu lăng cốc tức khả thiên nhi thai công tại nhân chi đức tắc bất thiên; mộc thạch khả hoại nhi cai huyện sùng đức chi nghi tắc vật hoại. Hiếu nhân hiếu nghĩa bách thế lưu phương, cai huyện kỳ miễn chiên. Quy dĩ thử ngôn lặc chư thạch vĩnh thùy lai kính.
Dịch nghĩa:
BIA GHI VỀ ĐỀN THỜ CỦA CÁC XÃ THUỘC
HUYỆN THẦN KHÊ PHỦ TIÊN HƯNG
Bài kí viết rằng: Cái cao quý nhất là đức, thứ đến là việc cho ơn và đền báo. Các quan hiền tài ngày xưa được lập đền thờ là để báo đáp những chính sách tốt của các vị lúc đương triều vậy. Còn như việc tình cảm thấm đượm trong ngoài, ơn sâu khắp cả thôn xóm, không chỉ người nay, đời nay được hưởng ân huệ đó mà đến trăm nghìn đời sau vẫn còn không hết, vua chúa noi theo hiền đức của các ngài, bắt chước cách đối xử thân thiết của các ngài, người dân thường hưởng cảnh an lạc, hưởng những lợi ích mà các ngài đã để lại cho, đó cũng là để báo đáp có thể đem ví với những chính sách tốt vậy. Xét thấy có Thái tể Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh vốn là Đương triều Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Suy trung Tuyên lực Tráng liệt công thần, Phụng sai Dao lĩnh Thái Nguyên xứ trấn thủ kiêm Đề lĩnh tứ thành quân vụ sự Trung Thắng Tiền Dực đẳng doanh Cơ trưởng Doanh quan, Thiêm quản Thị hầu thị trù Nội thuỷ Trung hầu Tử trạch Ưu tiền đẳng đội thuyền, Nội sai Ngũ phủ phủ liêu Tri thị nội thư tả, Hộ phiên Tư lễ giám Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, quen biết chúa từ khi còn ở ngôi thế tử được làm bề tôi tâm phúc ở nơi màn trướng. Bên trong trông coi cung điện, bên ngoài trấn thủ những nơi trọng yếu. Phát giác sự nổi loại trong cung, đề phòng và quét sạch những bọn phản loạn như Vương Mãng, vì thế được sủng ái ban cho tước lớn không ai bằng, huân vọng lớn nhất một thời, nhiều công lao không sao kể xiết, ông có tính hiếu đễ, yêu rộng rãi mọi người lại thân với điều nhân, ân trạch ở một ấp mà chan chứa khắp bốn bề thôn xóm. Vì thế mọi người trong huyện hơn một vạn người từ già đến trẻ đều yêu mến, ngưỡng mộ ông. Lúc này các xã trong huyện cùng nói rằng: “Xóm dưới có công việc cần làm thì nhân tài vật lực đều thiếu may được nhờ Thái tể tiên công được phong tặng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Nam Đô đốc phủ Tả Đô đốc cao đình hầu quan tâm giúp đỡ nên mới có ngày hôm nay. Nối tiếp chí của người xưa làm cho người già được yên ổn, trẻ nhỏ được chăm sóc, đùm bọc, giúp dân các việc tiện lợi, trừ bỏ những việc tệ hại khắp nơi đều nhận được ơn đức của ông, thêm vào đó uy vọng của ông làm mọi người đều thuần phục. Xóm làng trăm dặm rực rỡ như đài xuân vực thọ. Dân ta yêu như cha mẹ, ngước nhìn như sao thái tuế. Được nhờ bóng mát của cây cao mà nhớ đến tấc lòng cỏ dại phải nghĩ đến việc báo đáp ân đức của ông, mà chưa thể được. Việc đền ơn đáp nghĩa như bài thơ Quỳnh Dao ở chương "Vệ Phong" trong Kinh Thi sao bằng đặt lệ hương hoả phụng thờ nơi lăng mộ”. Bàn mưu đã hợp bèn chọn nơi xây dựng, chọn nơi rộng rãi. Chỗ đó nổi lên một mô đất, phía trước có ao hình bán nguyệt, có gò, cây cỏ tươi tốt, có nhiều ánh sáng lấp lánh ẩn hiện. Tiến đến khu đất ấy quy hoạch xây dựng đền thờ, xây ba gian thất hai gian đường, bên ngoài là nghi môn, xung quanh có tường bao quanh, quy mô một phen đổi mới, trăm loại thợ cùng làm. Ông chợt nghe được việc này, không muốn phiền dân liền bỏ ra hơn hai nghìn quan làm chi phí xây dựng, hơn hai mươi mẫu ruộng tốt làm nhu phí tần tảo. Từ đường xây dựng xong liền định điều ước hàng năm có ngày bái lễ, chỗ này là nơi để ca ngợi chúc tụng công đức của ông, đến khi ông trăm tuổi chầu trời thì đây sẽ là nơi hưởng tự, cùng nhau quy ước muôn đời không được quên. Muốn có mấy lời để truyền đời bất hủ, đến xin ta bài ký, ta vốn biết ông là người có tấm lòng nhân đức mà cả huyện đều biết. Nói rằng việc để lại những niềm ưu ái của người xưa thì có truyện: “Cây đường của Thiệu công(1), cây trúc của Khấu công(2)”. Tóm lại ghi nhớ đến công lao nhưng chưa được trực tiếp nhận biết. Ánh sáng rực rỡ, ngôi nhà thơm tho nhận ánh sáng của ngài, bỗng nhiên xây dựng miếu mạo. Nay vốn là người mà sẽ thành thần, thế thì công đức của ông đối với dân sao có thể kể hết. Công lao của ông với xã tắc, đức độ của ông với xóm làng là như thế, khó báo đáp hết được. Hôm nay bản huyện kính phụng lòng thành là để báo đáp ân đức, ngày khác triều đình phong thưởng là để báo đáp công lao, chẳng phải càng để lâu thì càng mờ đi ư? Hôm nay và ngày sau gò đống có thể đổi mà công đức của ông trong lòng mọi người không đổi; gỗ đá có thể nát mà nghi thức tôn sùng đức của huyện này không nát. Thích điều nhân chuộng điều nghĩa trăm đời lưu tiếng tốt, huyện này cần gắng gỏi lên. Đem những lời này khắc vào đá để mãi mãi muôn đời làm gương.
Nhận xét văn bản: Tiên Hưng phủ Thần Khê huyện các xã từ vũ bi ký do Tiên Điền Nguyễn Nghiễm soạn có 3 chữ viết kiêng húy:
- Đề: ®xuất hiện ở dòng thứ 5 của văn bản. Đây là chữ viết kiêng húy chức quan Đề điệu.
- Tân: ®xuất hiện ở dòng thứ 17 của văn bản. Đây là chữ viết kiêng húy của Lê Kính Tông (1600 -1619).
- Cửu: ®xuất hiện ở dòng thứ 26, 27, 31 (2 chữ), 34, 41, 47, 51. Về hiện tượng kiêng húy chữ cửu có nhiều ý kiến khác nhau, hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác là kiêng húy của ai.
* Về thân thế của Phạm Huy Đĩnh, trong tấm bia Báo Ân phường bi kí của Lê Quý Đôn ghi rằng: Ông sinh giờ Tuất ngày 12 tháng 5 năm Bính Ngọ (1726) và mất vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Ất Mùi (1775)(3). Theo như 2 tấm bia của Lê Quý Đôn và Nguyễn Nghiễm ở trên thì Quận công Phạm Huy Đĩnh là cây đại thụ ở đời, có nhiều công lao không sao kể xiết, lúc mất được chúa Trịnh Sâm phong tặng mỹ tự là “Chính trực Huân du Đại vương” (Đại vương chính trực, có công lao và mưu kế), nhưng qua vụ án Thái tử Lê Duy Vỹ nhiều người cho rằng ông là người “trọng chúa khinh vua”... Văn bia còn đó, sự việc sách sử còn đó, ngàn năm công tội cũng còn đó.
Chú thích:
1. Thiệu công: tên thật là Cơ Thích là con của Văn Vương em của Vũ Vương. Ông và Chu công là 2 bậc hiền thần đời Chu. Tương truyền Thiệu công có tài sử kiện ông thường ngồi dưới gốc cây cam đường xét xử rất công minh lên được mọi người yêu mến.
2. Khấu công: Tể tướng Khấu Chuẩn đời Tống có tài sử kiện giỏi như Bao Công được người đời ca tụng.
3. Thông tin trên do sau này thêm vào.
Các sách tham khảo:
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Vv.2183.
2. Đại Việt sử ký tục biên. Vv.1105.
3. Hoàng Lê nhất thống chíNgô gia văn phái, Nxb. Văn học, 1970.
4. Tứ thư tập chú - Chu Hy. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1998.
5. Khang Hy từ điển. Ht 79.
6. Từ điển Hán Việt hiện đại. Nxb. Thế giới, 1994.
7. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, PGS.TS Ngô Đức Thọ, Nxb. Văn hóa, 1997.
8. Đất và người Thái Bình từ truyền thuyết đến lịch sử. Phạm Minh Đức và Bùi Duy Lan, 2002./.

Phạm Minh Đức

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Đưa tôi về Trang chủ